Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

THIỀN ĐỊNH LÂU NHẤT




 Sư hỏi các đệ tử:
- Trong các con, ai hành thiền định lâu nhất?
Các đệ tử lần lượt thưa:
- Con nhập định một giờ.
- Con nhập định hai giờ.
- Con nhập định một ngày.
- Con nhập định năm ngày.
- Con nhập định bảy ngày.
Cuối cùng, một người đệ tử thưa:
- Thưa Thầy, con không biết con nhập bao lâu, chỉ biết là con đang thở từng hơi thở mà thôi.
Sư mừng rỡ nói:
- Thế mà con thiền định lâu nhất đó.
۞ 
Lời góp ý:  
Thiền định lâu nhất cũng còn xuất nhập, nên thiền định không phải là cứu cánh của Đạo Phật. Cao nhất của  thiền  định là cõi Sắc Giới và Vô Sắc Giới mà thôi.
Tuy nhiên, Đạo Phật không loại trừ thiền định, vì nếu sử dụng thiền định mà không dừng lại nơi thiền định, không xem thiền định là tối hậu mà chỉ tạm thời thoát khỏi sự chi phối đa đoan phiền nhiễu của cõi dục thì rất tốt. Vì vậy, thiền định vẫn được coi là hiện tại lạc trụ của các bậc Thánh (Ariyassa ditthadhamma-sukha vihàra).
Thiền Tuệ cũng không loại trừ thiền định, vì trong tuệ luôn luôn có định. Hơn nữa, thiền tông nói rằng đói ăn, khát uống, mệt nghỉ, thì sao lại không thiền định một chút cho khí dưỡng thần tồn?
Nhưng khi thiền định được rồi thì người ta thường ham mê hỷ lạc, do đó, đáng lẽ thiền định là quên thời gian, thì người ham mê thiền định lại tính thời gian để đó lường định lực.
Định lực không ở thời gian, mà ở chỗ bất loạn. Nếu trong từng hơi thở mà tâm bất loạn, quên hết thời gian thì sát-na định (khanika-samàdhi) lại chính là đại định (mahà-samàdhi).

VI TIẾU - Thầy Viên Minh

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Điều đó rồi cũng qua đi


Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn thử tài vị cận thần thân tín Benaiah của mình nên bảo rằng: “Ông hãy đi tìm cho ta một chiếc vòng thật đẹp để đeo trong ngày lễ và ta cho ông 6 tháng để tìm ra chiếc vòng đó." 
Benaiah trả lời: "Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, thần sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài. Nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?"
Nhà vua đáp: "Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn; và nếu ai đó đang buồn nhìn vào đó sẽ thấy vui!” Vua Salomon biết rằng sẽ không có chiếc vòng nào như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng vua muốn vị cận thần của mình nếm một chút thất bại.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm được một chiếc vòng như vậy. Vào đêm trước ngày lễ, ông đi đến một trong những khu dân cư nghèo nhất ở kinh thành. Ông thấy một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Ông dừng chân hỏi: “Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người đang hạnh phúc đeo nó thì quên đi niềm vui sướng và người đang đau khổ đeo nó thì quên đi nỗi buồn không?” Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi vị cận thần đọc hàng chữ trên đó thì khuôn mặt ông rạng rõ một nụ cười.
Đêm đó, toàn thành phố hân hoan đón mừng lễ hội. “Nào ông bạn của ta – vua Salomon hỏi – ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?” Mọi người đều cười lớn và chính vua cũng cười.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, vị cận thần đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây, thưa đức vua.” Khi vua Salomon đọc xong dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua.
Trên chiếc vòng khắc dòng chữ: “Điều đó rồi cũng qua đi!”

Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Ngục tù - Anthony de Mello


Minh Sư nói với đệ tử: "Con quá tự hào về trí thông minh của con. Con chẳng khác nào một tù nhân hãnh diện về chiều rộng của xà lim nhốt mình.” 
Học tập, nghiên cứu thường cung cấp cho chúng ta cả kho kiến thức, và chính kho kiến thức này dễ trở thành bức tường kiên cố của nhà tù mà chính chúng ta vô tình tự giam hãm mình. Điều đáng tiếc là chúng ta vẫn cầm nơi tay Chìa Khoá Ánh Mắt Tâm Linh, nhưng chẳng ai tự mở cửa để được tự do! 

Món quà vĩ đại nhất - Anthony de Mello


Hầu hết mọi người đều đang ngủ. Họ cần phải thức dậy, mở mắt, quan sát cái gì là thật, cả bên trong và bên ngoài chính họ. Món quà vĩ đại nhất của nhân loại là nhân loại được thức tỉnh, được tiếp xúc với chính mình, với cơ thể, với tâm trí, tình cảm, suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình.

Tư duy - Anthony de Mello


Một triết gia nói: "Tại sao thầy coi thường tư duy? Chính tư duy là dụng cụ độc nhất để san định thế giới."
"Đúng thế! Nhưng tư duy có thể san định thế giới một cách tốt đẹp đến nỗi người ta không thể nhìn thấy thế giới được nữa."
Về sau, Minh Sư nói với đệ tử: "Tư duy là một màn ảnh, chứ không phải là kiếng soi; đó là lý do vì sao các con sống trong một chiếc vỏ tư duy kín mít mà không để cho Thực Tại chạm đến mình được."

Ký ức sự kiện - Ký ức tâm lý - Osho

  • Ký ức sự kiện - Ký ức tâm lý
  • Tác giả: Osho


Tôi không bảo bạn vứt bỏ kí ức sự kiện của bạn. Điều đó sẽ là ngu ngốc! Kí ức sự kiện của bạn là cái cần phải có. Bạn phải biết tên mình, bố bạn là ai và mẹ bạn là ai và vợ bạn là ai và con bạn là ai và địa chỉ của bạn; bạn sẽ phải đi về khách sạn, bạn sẽ phải tìm ra căn phòng của mình. Kí ức sự kiện không được ngụ ý tới - kí ức tâm lí mới được ngụ ý tới. Kí ức sự kiện không phải là vấn đề, nó là việc hồi tưởng lại thuần tuý. Khi bạn trở nên bị ảnh hưởng về tâm lí, thế thì vấn đề nảy sinh. Cố hiểu khác biệt này.
Hôm qua ai đó xúc phạm bạn. Lần nữa người đó bắt gặp bạn hôm nay. Kí ức sự kiện là ở chỗ "người này đã xúc phạm mình hôm qua." Kí ức tâm lí là ở chỗ thấy người đó bạn trở nên giận dữ; thấy người đó, bạn bắt đầu sôi lên. Và người đó có thể tới chỉ để xin lỗi bạn; người đó có thể tới để tạ lỗi, để xin được tha thứ. Người đó có thể đã hiểu ra sai lầm của mình; người đó có thể đã hiểu ra hành vi vô ý thức của mình. Người đó có thể lại trở nên thân thiện với bạn, nhưng bạn lại trở nên sôi sùng sục. Bạn giận dữ, bạn bắt đầu mắng mỏ. Bạn không thấy khuôn mặt người đó ở đây bây giờ; bạn bị ảnh hưởng bởi khuôn mặt ngày hôm qua. Nhưng hôm qua là hôm qua! Bao nhiêu nước đã chảy xuôi qua sông Hằng rồi? Người này không phải là cùng người đó nữa. Hai mươi bốn giờ đã đem tới nhiều thay đổi - và bạn không là cùng con người trước nữa. Kí ức sự kiện nói, "Người này đã xúc phạm mình hôm qua," nhưng mà “mình” đã thay đổi rồi. Người này đã thay đổi rồi. Cho nên cứ dường như là sự vụ đã xảy ra giữa hai người mà với họ bạn chẳng có liên quan gì nữa - thế thì bạn được tự do về tâm lí. Bạn không nói, "Tôi vẫn thấy giận." Không có cơn giận đeo bám. Kí ức có đó, nhưng không có màu sắc tâm lí. Bạn lại gặp người này như người đó bây giờ, và bạn gặp người đó như bạn bây giờ.
Một người tới và nhổ vào mặt Phật. Người đó rất giận dữ. Người đó là một Brahmin còn Phật lại đang nói những điều mà các tu sĩ rất giận điều đó. Phật chùi mặt và hỏi người này, "Ông còn gì nữa để nói không?" Đệ tử của ông ấy, Ananda, trở nên rất giận. Ông ấy giận tới mức ông ấy hỏi Phật, "Xin hãy cho phép tôi làm cho người này biết lễ độ là gì. Thế này thì quá thể! Tôi không thể dung thứ điều đó được." Phật nói, "Nhưng ông ta có nhổ vào mặt ông đâu. Đây là mặt ta. Thứ nữa, nhìn người đó mà xem! Ông ta đang trong rối loạn lớn thế nào - cứ nhìn ông ta mà xem! Thấy từ bi với ông ta đi. Ông ta muốn nói điều gì đó với ta, nhưng lời lại không thích hợp. Đó cũng là vấn đề của ta nữa, vấn đề dài cả đời ta - và ta thấy người này trong cùng tình huống đó! Ta muốn kể lại mọi sự cho các ông rằng ta đã đi tới biết, nhưng ta không thể kể được cho họ bởi vì lời là không thích hợp. Người này đang trên cùng con thuyền đó: người này giận dữ tới mức không lời nào có thể diễn đạt được cơn giận của mình - cũng như ta đang yêu nhiều tới mức không lời nào, không hành động nào, có thể diễn đạt được nó. Ta thấy khó khăn của người này - nhìn xem!" Phật thấy, Ananda cũng thấy. Phật đơn giản có kí ức sự kiện; Ananda đang tạo ra kí ức tâm lí.
Người này không thể nào tin được vào tai mình, điều Phật vừa nói. Người này rất choáng váng. Người này sẽ không choáng váng nếu Phật đánh người này, hay Ananda đã nhảy lên người này. Thế thì sẽ không có choáng váng; điều đó đã được trông đợi, điều đó đáng là tự nhiên. Đó là cách con người phản ứng. Nhưng Phật cảm được người này, thấy cái khó khăn của người này... Người này đi, không thể ngủ được cả đêm, suy nghĩ mãi về điều đó, thiền về điều đó. Bắt đầu cảm thấy tổn thương lớn, bắt đầu cảm thấy điều mình đã làm. Một vết thương hé ra trong tim người này.
Sáng sớm hôm sau, người này chạy xô tới chân Phật, khuỵu xuống chân Phật, hôn chân Phật. Và Phật nói với Ananda, "Trông này, lại cùng vấn đề rồi! Bây giờ người này đang cảm thấy quá nhiều với ta, người này không thể nói được thành lời. Người này chạm chân ta. Con người bất lực thế. Bất kì cái gì quá nhiều cũng đều không thể diễn đạt được, không thể truyền đạt được, không thể trao đổi được. Phải tìm ra cử chỉ nào đó để tượng trưng cho nó. Trông xem!" Và người này bắt đầu khóc và người này nói, "Tôi xin lỗi, thưa thầy. Tôi cực kì xin lỗi. Nhổ vào thầy, một con người như thầy, là ngu xuẩn tuyệt đối về phần tôi." Phật nói, "Quên điều đó đi! Người mà ông đã nhổ vào không còn nữa, và người đã nhổ cũng không còn nữa rồi. Ông mới, ta mới! Trông đấy - mặt trời này đang mọc lên là mới. Mọi thứ đều mới. Ngày hôm qua không còn nữa. Được kết thúc với nó đi! Và làm sao ta có thể tha thứ được? bởi vì ông chưa bao giờ nhổ vào ta. Ông nhổ vào ai đó đã đi rồi."
Tâm thức là dòng sông liên tục. Khi tôi nói vứt bỏ kí ức của bạn, tôi ngụ ý kí ức tâm lí; tôi không ngụ ý kí ức sự kiện. Phật nhớ hoàn hảo rằng hôm qua người này đã nhổ vào mình, nhưng ông ấy cũng nhớ rằng người này không là cùng con người cũ cũng như ông ấy không là cùng con người cũ. Chương đó đã khép lại rồi; chẳng đáng mang nó trong cả đời bạn. Nhưng bạn cứ mang. Ai đó đã nói điều gì đó với bạn từ mười năm trước và bạn vẫn còn mang nó. Mẹ bạn đã giận dữ khi bạn còn là đứa trẻ và bạn vẫn còn mang nó. Bố bạn đã tát bạn khi bạn chỉ là đứa bé và bạn vẫn còn mang nó, và bạn có thể bẩy mươi tuổi. Những kí ức tâm lí này cứ đè nặng bạn. Chúng phá huỷ tự do của bạn, chúng phá huỷ sự sống động của bạn, chúng giam cầm bạn. Kí ức sự kiện là hoàn toàn tốt. Và một điều nữa cần được hiểu: khi không có kí ức tâm lí, kí ức sự kiện là rất chính xác - bởi vì kí ức tâm lí là rối loạn. Khi bạn rất bị náo động về tâm lí, làm sao bạn có thể nhớ được chính xác? Điều đó là không thể được! Bạn đang run rẩy, bạn đang rung lên, bạn đang trong một loại động đất - làm sao bạn có thể nhớ được đích xác? Bạn sẽ cường điệu lên; bạn sẽ thêm cái gì đó, bạn sẽ xoá đi cái gì đó, bạn sẽ làm ra cái gì đó mới từ nó. Bạn không thể tin cậy được. Người không có kí ức tâm lí thì có thể tin cậy được. Chỉ sự kiện - sự kiện trần trụi, sự kiện trần.
Khi bạn nói về sự kiện, thì thế nữa nó cũng không phải là sự kiện: nhiều hư cấu đã đi vào nó rồi. Bạn đã tạo khuôn nó, bạn đã thay đổi nó, bạn đã tô vẽ nó, bạn đã cho nó mầu sắc của riêng mình, nó không còn là sự kiện nữa! Chỉ vị Phật, một Như Lai, người chứng ngộ, mới biết sự kiện là gì; bạn chưa bao giờ bắt gặp sự kiện cả, bởi vì bạn mang biết bao nhiêu hư cấu trong tâm trí mình. Bất kì khi nào bạn tìm thấy một sự kiện, bạn lập tức áp hư cấu của mình vào nó. Bạn chưa bao giờ thấy cái đang đó, bạn cứ bóp méo thực tại. Phật nói Như Lai, người đã thức tỉnh, bao giờ cũng đúng bởi vì ông ấy nói tương ứng với thực tại. Như Lai nói ra chân lí, không bao giờ nói khác đi. Như Lai là đồng nghĩa với như vậy. Dù nó là bất kì cái gì, Như Lai đơn giản phản xạ; đó là tấm gương. Đó là điều tôi ngụ ý - vứt bỏ kí ức tâm lí và bạn sẽ trở thành tấm gương.
Bạn đã hỏi, "Thầy thường xuyên khẩn nài chúng tôi từ bỏ kí ức, để sống trong ở đây bây giờ..." Điều đó không có nghĩa rằng quá khứ của bạn không thể được nhớ lại. Quá khứ là một phần của hiện tại; bất kì cái gì bạn đã là trong quá khứ, đều là một phần của hiện tại của bạn, nó là ở đây. Đứa trẻ của bạn là trong bạn, thanh niên của bạn là trong bạn... tất cả mọi điều bạn đã làm đều ở bên trong bạn. Thức ăn mà bạn đã ăn - nó là quá khứ, nhưng nó đã trở thành máu bạn; nó tuần hoàn ở đây bây giờ, nó đã trở thành xương bạn, nó đã trở thành tuỷ bạn. Tình yêu mà bạn đã trải qua có thể là quá khứ nhưng nó đã biến đổi bạn. Nó đã cho bạn một tầm nhìn mới về cuộc sống, nó đã mở mắt bạn. Hôm qua bạn đã ở cùng tôi - nó là quá khứ, nhưng nó có thực là quá khứ toàn bộ không? Làm sao nó có thể là quá khứ toàn bộ được? Bạn đã bị thay đổi bởi nó; bạn đã được cho tia lửa mới, ngọn lửa mới - cái đó đã trở thành một phần của bạn. Khoảnh khắc hiện tại của bạn chứa đựng toàn thể quá khứ của bạn. Và nếu bạn có thể hiểu được tôi, thì khoảnh khắc hiện tại của bạn cũng chứa toàn thể tương lai của bạn - bởi vì quá khứ như nó đã xảy ra đã làm thay đổi bạn, nó đã chuẩn bị bạn. Và tương lai đang sắp xảy ra sẽ xảy ra từ cách bạn sống trong hiện tại. Cách bạn sống ở đây bây giờ sẽ có tác động lớn lao lên tương lai của bạn. Trong khoảnh khắc hiện tại tất cả quá khứ đều được hàm chứa, và trong khoảnh khắc hiện tại tất cả tương lai đều là tiềm năng - nhưng bạn cần không lo nghĩ tới nó về mặt tâm lí. Nó đã ở đó rồi! Bạn không cần mang nó về mặt tâm lí, bạn không cần bị nặng gánh bởi nó. Nếu bạn hiểu tôi, rằng nó đã được hàm chứa trong hiện tại rồi... Cây không nghĩ về nước mà nó hút ngày hôm qua, nhưng nước vẫn có đấy! Suy nghĩ hay không suy nghĩ. Và tia nắng mặt trời chiếu lên nó hôm qua - nó không nghĩ về chúng. Cây không ngu thế, không ngu như người. Sao lại bận tâm tới tia nắng của hôm qua? Chúng đã được hấp thu, được tiêu hoá rồi; chúng đã trở thành một phần của màu lục, màu đỏ và thành vàng. Cây đang tận hưởng mặt trời buổi sáng này, không có kí ức tâm lí về hôm qua. Mặc dầu hôm qua được chứa đựng trong lá, trong hoa, trong cành, trong rễ, trong nhựa. Nó có đó! Và tương lai cũng đang tới; nụ mới, cái sẽ trở thành hoa ngày mai, có đó. Và những chiếc lá mới nhỏ bé sẽ trở thành tán lá ngày mai cũng có đó, đang trên đường. Khoảnh khắc hiện tại chứa đựng hết thảy. Bây giờ là vĩnh hằng.
Cho nên tôi không nói quên quá khứ sự kiện; tôi đơn giản nói đừng bị xáo động bởi nó thêm nữa. Nó không nên là sự đầu tư tâm lí. Nó là sự kiện vật lí - cứ để nó như vậy. Và tôi không nói hãy trở nên không có khả năng nhớ nó - nó có thể được cần đấy! Khi nó được cần tới, nhu cầu là trong hiện tại, nhớ lấy, và bạn phải đáp ứng với nhu cầu này. Ai đó hỏi bạn số điện thoại của bạn - nhu cầu này là hiện tại bởi vì ai đó đang hỏi bây giờ, và bạn nói, "Làm sao tôi có thể nói cho bạn số điện thoại của tôi được? bởi vì tôi đã vứt bỏ quá khứ của mình." Thế thì bạn sẽ lâm vào rắc rối không cần thiết. Cuộc sống của bạn, thay vì trở nên tự do, thay vì trở thành niềm vui và lễ hội lớn lao, sẽ bị cản trở tại mọi bước; bạn sẽ thấy cả nghìn lẻ một vấn đề không cần thiết đang do chính bạn tạo ra.

Nguyên lý giác ngộ của đạo Phật - thầy Viên Minh

Nguyên lý giác ngộ của đạo Phật rõ ràng là, “Tự mình là hòn đảo của chính mình” (giữa bể khổ trầm luân) hay “Tự mình thắp đuốc lên mà đi” (giữa nẻo vô minh tăm tối), vì vậy, bổn phận của người tu chính là chấm dứt sự tìm kiếm bên ngoài, chỉ trở về thấy ra Bản Tâm Thanh Tịnh hay Tánh Biết Trong Sáng (Pabhassara Citta) là ngay đó giác ngộ giải thoát mà thôi. Tham vọng hay ý chí của bản ngã luôn lăng xăng tạo tác để trở thành... chính là vô minh ái dục, đưa đến phiền não khổ đau. Cho nên, sai lầm lớn nhất của con người là cố gắng tạo tác để trở thành cái khác ngoài chính mình để rồi mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử! Luân hồi được ví như câu chuyện "Anh thợ đục đá". Chuyện kể rằng:

"Có một người thợ đục đá vì làm việc cực nhọc nên luôn không bằng lòng với bản thân mình. Một ngày kia, anh thấy một ông vua ngồi kiệu đi qua, được người hầu kẻ hạ rất oai phong và nhàn nhã. Quả là một người đầy quyền lực mà ai ai cũng đều phủ phục kính nể. Anh ta nghĩ, “Ồ ước gì mình được làm vua thì sung sướng biết bao!”
Thật kỳ lạ, anh ta vừa nghĩ xong thì lập tức được biến thành ông vua. Được làm vua anh ta mặc sức ngao du sơn thủy để hưởng lạc thú trên đời, nhưng rồi mùa hè oi bức đến, mặt trời chiếu nóng nực không chịu nổi. “Thì ra vua cũng không bằng uy lực của mặt trời, ước gì mình được làm mặt trời nhỉ!” Thế là anh lại được làm mặt trời như mơ ước của mình.
Thành mặt trời, anh thể hiện uy lực của mình, chiếu ra vô vàn tia nắng trên muôn loài vạn vật với niềm kiêu hãnh, tự cao. Nhưng chính vì chiếu nắng nhiều quá nên hơi nước bốc lên thành mây che khuất cả mặt trời. Thế là anh ta lại ước thành là mây và cũng được như nguyện. Mây cố che hết mặt trời nên không khí thay đổi không điều hòa đã tạo ra gió, và chính gió thổi mây bay tan tác.
Anh lại ước mình làm gió, và khi đã được làm gió anh ra sức hô phong hoán vũ để thể hiện sức mạnh vô địch của mình. Anh hả hê thấy mình thổi gì cũng được, nhưng khi thổi vào núi đá hết sức bình sinh núi đã vẫn trơ trơ bất động. Anh nghĩ, “Chà, làm núi đá mới là uy dũng”, thế là anh biến thành núi đá. Mặc gió mưa nắng rét anh đứng thật oai phong, kiên cố…
Nhưng chẳng bao lâu anh nghe dưới chân đau nhói, nhìn xuống thì anh thấy người thợ đục đá đang giáng những quả búa tạ vào chân mình đau buốt mà anh chẳng làm được gì, chỉ trân mình chịu trận. “Thợ đục đá lợi hại thật, phải chi mình là anh ta nhỉ” - anh vừa nghĩ xong thì liền thấy mình trở về làm người thợ đục đá năm xưa."

Luân hồi là vậy đó! Chúng ta thường cho là có một cái gì cao quý hơn để đạt tới... nhưng chỉ vì không nhận ra rằng tất cả mọi hiện hữu đều cao quý như nhau nếu biết trở về trọn vẹn với thực tánh của chính mình, đó mới là thật sự giác ngộ giải thoát. Giá trị cuộc sống không phải cái mình cho là tốt nhất để lựa chọn, mà là thấy ra sự hoàn hảo vốn có sẵn trong thực tánh của tất cả mọi sự mọi vật bất toàn.

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2014

Rơi Xuống Giếng

   
Đời sẽ đổ lên người bạn mọi thứ rác bẩn để cố nhận chìm bạn. Bí quyết để thoát khỏi hố là rũ sạch rác để ngoi lên.


Mỗi khó khăn gặp phải là một viên đá giúp ta tiến lên. Nếu cố gắng không ngừng, ta có thể thoát ra khỏi những giếng sâu nhất… 
...Vui lòng download Slide Show Roi_xuong_gieng.pps để xem đầy đủ nội dung.

Dễ và Khó


Dễ là khi bạn có một chỗ trong sổ địa chỉ của một ai đó, nhưng khó là khi bạn tìm được một chỗ trong trái tim của người đó.
Dễ là khi đánh giá lỗi lầm của người khác, nhưng khó là khi biết kiểm soát lời nói của mình.
Dễ là khi làm tổn thương một người mà bạn yêu thương, nhưng khó là khi làm lành vết thương đó.
Dễ là khi tha thứ cho người khác, nhưng khó là khi làm cho người khác tha thứ cho mình.
Dễ là khi đặt ra các nguyên tắc, nhưng khó là khi làm theo chúng.
Dễ là khi nằm mơ hằng đêm, nhưng khó là khi phấn đấu vì một ước mơ.
Dễ là khi thể hiện chiến thắng, nhưng khó là khi nhìn nhận một thất bại.
Dễ là khi vấp phải một hòn đá và ngã, nhưng khó là khi đứng dậy và đi tiếp.
Dễ là khi hứa một điều gì, nhưng khó là khi hoàn thành lời hứa đó.
Dễ là khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu thương, nhưng khó là khi làm cho người khác cảm thấy như thế hàng ngày.
Dễ là khi phê bình người khác, nhưng khó là khi cải thiện chính bản thân mình.
Dễ là khi để xảy ra sai lầm, nhưng khó là khi học từ những sai lầm đó.
Dễ là khi buồn bực vì một điều gì đó mất đi, nhưng khó là khi quan tâm đủ đến điều đó để đừng làm mất.
Dễ là khi nghĩ về một việc, nhưng khó là khi ngừng suy nghĩ và bắt đầu hành động.
Dễ là khi nghĩ xấu về một người khác, nhưng khó là khi cho họ một niềm tin.
Dễ là khi nhận, nhưng khó là khi cho.
Dễ là khi đọc những điều này, nhưng khó là khi bạn thực hiện nó.
Nếu cơ hội mãi không gõ cửa, bạn phải xem mình đã xây một cánh cửa chưa.

Tha Thứ

Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, vợ con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để rũ bỏ được oán hờn và thù ghét đây?”
 Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ”.
 Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã tha thứ cho họ sư phụ ạ. Nhẹ cả người! Coi như xong”.
Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra và thương yêu họ”. Người đệ tử gãi đầu:"Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương họ thì... Thôi được con sẽ làm!"
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình. Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy”.
Lần sau người đệ tử trở lại, lần này tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Người đệ tử hớn hở thưa rằng mình đã ghi ơn hết mọi người vì nhờ họ mà anh đã học được sự tha thứ! 
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ!”

Đối Trị Tâm Sân Hận

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta không nổi giận thì chúng ta không khác gì cây cỏ vô tri, rằng không làm gì cả mà chỉ chịu đựng tất cả những bất công đến với mình là một thái độ tiêu cực. Nhưng sự thật thì sân hận hay giận dữ không phải là vũ khí tốt nhất để đấu tranh cho sự công bằng, bởi vì chúng ta đã biết sân hận đã đem đến bao nhiêu tai hại cho chính chúng ta và người khác. Trong một vài trường hợp, khi cần thiết, chúng ta có thể hành động để điều chỉnh những sai trái, nhưng chúng ta nên hành động với sức mạnh của tâm từ ái, trầm tĩnh, chứ không phải với tâm phá hoại. Nói cách khác, có thể dùng biện pháp mạnh, nhưng không phải với ác ý và thù hận.

Một vài nhà tâm lý học cho rằng chúng ta nên bộc lộ sự giận dữ của mình để khỏi bị ức chế dẫn đến bệnh hoạn. Nhưng một số nhà tâm lý học khác lại đúng hơn khi cho rằng bộc phát cơn giận không giải quyết được vấn đề. Mặc dù việc bộc lộ sự giận dữ của mình có thể đem lại sự thoả mãn tức thời – có thể bằng cách la hét, múa may, đập phá đồ đạc, chửi rủa, v.v… - nhưng cách đó không thể xua tan cơn giận. Ngược lại, nó chỉ kích thích thêm những khuấy động tình cảm và thậm chí còn kéo dài nó.

Có lẽ cách thông thường nhất để đề phòng tâm sân hận là tránh những người hay tình huống khó chịu. Nếu chúng ta cảm thấy chúng ta không thể chịu nổi một người hay một tình huống nào đó, mà nếu gặp chúng ta dễ nổi giận, thì tốt hơn nên tránh xa họ. Sự tránh xa này phải ở cả thân lẫn tâm, nghĩa là chúng ta không nên để cho những đối tượng đó hiện diện ngay cả trong tâm chúng ta và quấy nhiễu sự bình an trong tâm hồn mình. Dù đây là một cách khá dễ dàng để khỏi nổi sân, không phải khi nào chúng ta cũng làm được điều đó, và chúng ta cũng phải công nhận rằng đó không phải là biện pháp tốt nhất để diệt trừ tâm sân hận. Trái lại chúng ta nên học cách làm sao để có thể sống chung hoà bình với những gì mà chúng ta không thích. Chúng ta nên trang bị cho mình với một tư tưởng rằng trên đời này không có một cái gì hay một người nào hoàn hảo, rằng con người không thể hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu, mà là một sự kết hợp của các thuộc tính tốt và xấu ở các mức độ khác nhau. Chúng ta cần phải chấp nhận rằng đã là con người thì đều có thể mắc sai lầm, và phải cho người ta có quyền khác với mình, có quyền phạm sai lầm, bởi vì bất toàn là đặc tính chung của toàn nhân loại. Chấp nhận những sai sót và khuyết điểm của chính mình và của người khác là một dấu hiệu của lòng nhẫn nại và bao dung, vốn là một thứ thuốc giải độc cho tâm sân hận.

Một trong những vấn đề liên quan đến sân hận là chúng ta cảm thấy mình đúng khi nổi giận, và bởi vì chúng ta thấy mình đúng, nên chúng ta hoàn toàn đồng hoá mình với cơn giận. Vì vậy, điều đầu tiên chúng ta cần phải làm để đối trị tâm sân hận là không đồng hoá với nó. Chúng ta nên cảm nhận nó một cách rõ ràng như một cảm giác, xem nó khởi lên, lớn dần và biến mất như thế nào. Phương pháp chánh niệm trên cảm thọ như vậy giúp chúng ta theo dõi cơn sân với tư cách là một người quan sát khách quan, không còn bị nó đồng hoá hay sai sử nữa. Bởi vậy khi nào chúng ta nổi giận, hãy dừng lại và quan sát. Hãy cố gắng có một giây phút chánh niệm để xem cảm giác đó là thế nào. Do ảnh hưởng của chánh niệm cơn sân sẽ mất sức mạnh và dần dần giảm đi. Chúng ta không đè nén cơn sân mà chỉ quan sát và để cho nó biến mất. Phương pháp này có thể coi là trung đạo giữa sự bộc phát và sự đè nén.

Chúng ta cũng có thể dùng lý luận để chặn bớt sân hận. Chúng ta nên tự hỏi là nếu mình giận một người nào thì mình có thể làm gì được họ. Chúng ta không thể huỷ hoại đức hạnh hay các phẩm tính tốt của họ. Đức Phật thường nói rằng giận dữ với người khác cũng như cầm phân, than nóng, hay sắt nung đỏ để đánh người khác. Chính chúng ta sẽ là người đầu tiên bị vấy bẩn hay bị thương. Cũng như vậy, nếu người khác nổi giận với ta thì họ sẽ làm gì được ta? Họ có thể huỷ hoại đức hạnh và các phẩm tính tốt của ta chăng?

Vì vậy tự trọng là một vũ khí khác để đối trị tâm sân hận. Tự trọng được định nghĩa là "một cái nhìn thực tế và trân trọng đối với chính mình" [16]. Có nghĩa là chúng ta nhìn chính mình một cách chính xác và trung thực, không đề cao mà cũng không hạ thấp giá trị hay tầm quan trọng của chính mình. Chúng ta ý thức được những ưu điểm và nhược điểm của mình, và cảm thấy thoải mái với chính bản thân chúng ta. Ngài Ajahn Cha, một thiền sư nổi tiếng của Thái Lan, thường dạy các đệ tử của ngài: "Nếu người ta chửi con là chó, thì con hãy nhìn lui xem mình có cái đuôi không. Nếu con có cái đuôi thì họ nói đúng rồi. Còn nếu con không có đuôi, thì cũng đừng lo lắng làm gì. Con không phải là con chó, vậy thì đâu có vấn đề?" [17] Vì vậy, nếu chúng ta biết rõ giá trị của chính mình, chúng ta không cần phải tranh đấu để tự khẳng định lại mình khi bị người khác lăng mạ. Lúc đó chúng ta sẽ bình an dù có bị tấn công cách mấy, bởi vì tận sâu thẳm trong lòng chúng ta biết rằng không một điều gì mà người khác nói hay làm có thể làm thay đổi giá trị và nhân cách của chúng ta.

Một phương pháp nữa để tránh xa tâm sân hận là sự đồng cảm. "Đồng cảm là thấy được quan điểm của người khác và cảm nhận được những điều họ đang cảm nhận" [18]. Với tâm đồng cảm, chúng ta hiểu rằng những người hay gây hấn chính là những người đang bị tổn thương, rằng những người cố ý hại người khác là do tâm họ không được an lành. Với tâm đồng cảm, chúng ta biết rằng những người đang xúc phạm chúng ta đều có những vết thương chưa được hàn gắn, rằng họ đang có những bất an và sợ hãi trong lòng, và nên thú nhận rằng nếu chúng ta gặp những vấn đề tương tự, có lẽ chúng ta cũng hành động như họ mà thôi. Có thể họ không phải là người ích kỷ hay vô tâm, mà đôi lúc chỉ vì họ bị rối trí và tán loạn mới cư xử như vậy, và vì thế chúng ta không nên buộc tội họ làm gì.

Để ngăn ngừa tâm sân hận, chúng ta nên thay đổi cách suy nghĩ. Chúng ta nên thay đổi lối suy nghĩ của mình từ thái độ tiêu cực và thù ghét sang một thái độ tích cực và bình thản. Hãy cố gắng đừng tập trung vào những khía cạnh tiêu cực mà nên nhìn vào cả những khía cạnh tích cực của một vấn đề. Khi một việc gì không được "xuôi chiều mát mái", hãy tìm xem có biện pháp nào để khắc phục được không. Nếu có thì theo đó mà hành động, bằng không, thì cứ chấp nhận và cho qua. Ngài Shantideva đã đặt ra một câu hỏi rất khôn khéo: "Tại sao phải buồn bực với một điều gì nếu điều đó có thể thay đổi được? Và lợi ích gì khi buồn bực với những điều mà mình không thể thay đổi?" [19]

Ngài cũng chỉ ra một phương pháp để ngăn ngừa tâm sân hận, đó là xem xét cả yếu tố trực tiếp lẫn yếu tố gián tiếp gây nên một hành động hay một sự thương tổn. "Chẳng hạn, nếu một người dùng gậy đánh một người khác, thì thật ra người đó nên giận cây gậy mới đúng. Hay cũng có thể nói là nên giận chính cái gốc bên trong tâm của người đánh mới phải. Tức là nên nổi giận với chính tâm sân của người đó. Vậy thì tại sao chúng ta lại đi chọn cái trung gian giữa nguyên nhân trực tiếp gây thương tích, là cây gậy, và nguyên nhân gián tiếp, là sân hận, cái gốc rễ bên trong? Chúng ta gạt bỏ hai nguyên nhân này ra một bên, và chỉ chọn vật trung gian, là con người, để mà nổi giận, và dồn hết tất cả sự giận dữ vào người đó." [20] Bằng sự quán xét này chúng ta sẽ nhận ra rằng không phải là một người nào khác, mà chính bản chất của con người đang làm tổn thương chúng ta, và vì vậy mà chúng ta có thể rải tâm bi đến người đó và tha thứ cho họ. Một trong những lời khuyên của Đức Phật là "Nếu người nào dùng tay, dùng đá, dùng gậy, dùng dao để đánh con, thì con hãy từ bỏ hết những ý muốn trả thù thông thường của người thế tục. Và con nên tự nhủ rằng "tâm ta sẽ không bị khuấy động, và ta sẽ không thốt lên một lời xấu ác nào. Ta sẽ an trú vào tâm bi, vào tâm từ, để không khởi lên một niệm thù ghét nào, vì lợi ích của người kia." [21]

Tâm từ (metta) là liều thuốc tốt nhất để trị tâm sân hận. Tâm từ là tình thương không chiếm hữu mà chỉ muốn giúp đỡ, sẵn sàng hy sinh những quyền lợi riêng của chính mình cho hạnh phúc và sự an vui của tất cả chúng sanh. Tâm từ không lựa chọn hay chối bỏ một đối tượng nào. Nếu chúng ta chỉ thương yêu một số bạn hữu và xa lánh những người xấu, tức là chúng ta chưa thực hành tâm từ. Có một phương pháp thiền gọi là thiền tâm từ (metta bhavana), là phương pháp "làm phát sanh một tư tưởng mạnh mẽ, một tình thương rộng lớn đến vô lượng, làm cho tâm trở nên vô biên và phổ cập, mong cho tất cả chúng sanh trở nên hiền hoà, không thù oán lẫn nhau, hạnh phúc, an vui, không bị buồn khổ hay hiểm nguy."[22] Hành tâm từ sẽ làm giảm đi khuynh hướng hay giận dữ và rốt ráo có thể diệt sân hận tận gốc rễ.

Tâm Bi (karuna) là một pháp hành cao thượng mà Đức Phật thường khuyên các đệ tử của ngài tu tập. Tâm bi là tâm cảm nhận được sự đau khổ và mong muốn làm giảm bớt sự đau khổ của chính mình và của người khác. Đau khổ tồn tại dưới rất nhiều hình thức. Khi một người cau có, cay nghiệt, ưa gây sự và cư xử một cách vô lý, thì chắc chắn là người đó đang đau khổ trong lòng, và không biết nên cư xử làm sao. Với tâm bi, chúng ta thông cảm với nổi khổ của người khác và không phản ứng lại bằng cách tương tự để cho tình trạng càng xấu thêm. Thay vì xúc phạm người đã xúc phạm mình, chúng ta quan tâm đến họ và cố gắng làm điều gì đó để giúp họ vơi bớt niềm đau khổ.

Tha thứ là một liều thuốc tuyệt diệu cho sân hận, và thường được xem là "viên kim cương trên vương miện của các pháp đối trị tâm sân hận", theo như một số người nhận định. "Tha thứ có nghĩa là chúng ta quyết định bỏ đi tất cả sự oán giận, ganh ghét, cay nghiệt, và lòng khao khát muốn trả thù cho những điều sai trái đã xảy đến với chúng ta. Đó là cách làm hoà bình với quá khứ."[23] Chúng ta có thể tha thứ thật sự khi chúng ta biết rằng người khác xúc phạm chúng ta bởi vì họ là nạn nhân của chính những phiền não trong tâm họ và của hoàn cảnh bên ngoài, và nổi giận với họ thì chính chúng ta cũng đánh mất đi sự bình an trong tâm hồn mình. Chúng ta tha thứ để chúng ta thoát khỏi những phiền não của chính mình và bớt đau khổ. Một cách rốt ráo thì tha thứ là sự lựa chọn cá nhân của chúng ta, không cần người khác phải ăn năn, xin lỗi, hay xứng đáng để được tha thứ.[24] Mặc dù đôi lúc tha thứ thật là khó khăn, nhưng chúng ta nên cố gắng thục tập nó vì tha thứ chính là chìa khoá cho sự hài hoà tốt đẹp của gia đình và xã hội.

Khi cảm thấy hành tâm bi quá khó khăn, hay khi khả năng tha thứ của chúng ta còn quá yếu, thì một phương pháp khác có thể sử dụng, đó là phát triển tâm xả. "Tâm xả nghĩa là nhận thức, hiểu biết, chấp nhận, và bằng lòng với sự thật là có một giới hạn nhất định trong những việc ta có thể làm hay thành tựu đuợc. Ta phải chấp nhận rằng người đó là như vậy, và rồi bước qua một bên".[25] Để phát triển tâm xả, chúng ta cần hiểu và chấp nhận định luật về nghiệp. Tất cả hành động thiện và bất thiện đều cho quả. Không ai có thể tránh khỏi những quả mà mình đã gieo. Vì vậy khi một người lăng nhục hay lừa gạt chúng ta, nếu chúng ta phản ứng bằng cách tương tự thì chính chúng ta cũng đã phạm vào một hành vi bất thiện. Ngược lại, chúng ta nên tin rằng dù chúng ta có trả thù hay không thì người đó cũng không tránh khỏi nghiệp của họ. Có người cho rằng thái độ này quá tiêu cực, rằng ít nhất chúng ta cũng nên làm gì để tự bảo vệ mình, nhưng đôi lúc chúng ta không thể làm được điều gì, và trong trường hợp đó, tâm xả là phương pháp tốt nhất giúp chúng ta khỏi nổi sân.

Câu chuyện của ngài Sariputta là một tấm gương sáng cho tất cả chúng ta, nhũng người muốn học hạnh từ bi, khoan dung va khiêm tốn. Một hôm khi Đức Phật đang ở gần thành Xá Vệ, một vị tỳ kheo đến và thưa với Đức Phật rằng ngài Sariputta đã xúc phạm tới ông mà không hề xin lỗi, và đã bỏ đi du hành nơi khác. Đức Phật bảo một vị tỳ kheo đi thỉnh ngài Sariputta đến trước Đức Phật và chư tăng. Khi được hỏi có phải là ngài đã xúc phạm một vị tỳ kheo và không xin lỗi mà bỏ đi nơi du hành nơi khác chăng, ngài Sariputta trả lời rằng chỉ có một người thiếu chánh niệm mới làm điều đó, và ngài trình bày tiếp ngài đã tu tập và cư xử như thế nào trong đời sống hàng ngày. Ngài đã sống học hạnh khiêm cung như đất, như nước, như lửa, như gió, v.v… :

"Ví như, bạch Thế Tôn, trên đất, người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ bất tịnh, quăng phẩn uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không xấu hổ, hay không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như đất, rộng rãi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xúc phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, mà không có xin lỗi.

Cũng vậy, nước rửa sạch các thứ tịnh và bất tịnh; tuy vậy nước không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán; lửa đốt các thứ tịnh và bất tịnh, tuy vậy lửa không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán; gió thổi các đồ tịnh và bất tịnh, tuy vậy gió không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán. Với một tâm như đất, như nước, như lửa, như gió vậy, thì làm sao lại có thể xúc phạm người khác?"[26]

Nghe xong những lời nói hùng hồn như sư tử hống của ngài Sariputta, vị tỳ kheo đó quỳ dưới chân Đức Phật và thú nhận rằng ông đã vì ngu si, vì vô minh, vì bất thiện mà đã xuyên tạc Tôn giả Sàriputta một cách không ý thức, trống không, vọng ngôn, không thật. Đức Phật tha thứ cho ông và yêu cầu ngài Sariputta cũng nên tha thứ cho ông ta.

Trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, chúng ta đều đã có những kinh nghiệm riêng về sức tàn phá của tâm sân hận. Nó có sức huỷ hoại hơn bất cứ một thứ vũ khí nào. Sân hận gây nên sự cáu gắt, căng thẳng, và đau khổ, và khi sân hận có mặt thì hạnh phúc không thể hiện diện trong tâm. Và vì khuynh hướng của con người là mong cầu hạnh phúc và loại bỏ đau khổ, chúng ta nên tu tập để diệt trừ tâm sân hận. Đó không phải là vấn đề cá nhân mà còn là vấn đề xã hội, bởi vì sự thật thì "Nếu chúng ta muốn thay đổi xã hội, trước hết hãy thay đổi chính mình". Nếu chúng ta muốn thế giới này trở nên nhân ái hơn, trước hết chúng ta phải đến với người bằng lòng nhân ái, nếu chúng ta muốn mọi người bớt bạo động thì trước hết chúng ta phải an hoà và trầm tĩnh. Sự thật này đã được Đức Phật nhắc đến trong bài kệ số 5 của Kinh Pháp Cú:

"Nếu ai lấy oán báo thù
Oan oan tương báo, thiên thu hằng sầu
Từ tâm định luật nhiệm mầu
Lấy ân báo oán, còn đâu oán thù?"[27]

Nguyện cho tất cả chúng sanh sớm thoát khỏi tâm sân hận, và sống an vui vượt ngoài vòng kềm toả của hằn thù và sân hận.

Liễu Pháp
Trích bài viết "Đối Trị Tâm Sân Hận" - trungtamhotong.org

[1] Jadunath Sinha, Indian Psychology-Emotion and Will, Vol. II, Calcutta: Sinha Publishing House, 1961, p.110.

[2] Ibid., p.111.

[3] Ibid., p.113.

[4] Caroline A.F. Rhys Davids, tr., A Buddhist Manual of Psychological Ethics, Munshiram Manoharlal Publishers Pvt. Ltd., 1996, p.111.

[5] Collins Cobuild Advanced Learner’s English Dictionary, Glasgow: HarperCollins Publishers, 2003, p.47.

[6] Raymond Lloyd Richmond, Ph.D, San Francisco, California USA, A Guide to Psychology and its Practice (from the internet sources)

[7] Ibid.

[8] Glenn R. Schiraldi and Melissa Hallmark Kerr, The Anger Management Sourcebook, New Delhi: Tata McGraw-Hill Publishing Company Limited, 2004, p.4.

[9] Jadunath Sinha, Indian Psychology-Emotion and Will, Vol. II, Calcutta: Sinha Publishing House, 1961, p. 194..

[10] The Dalai Lama, Healing Anger, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 2003, p.9.

[11] The Connected Discourses of the Buddha, Vol. II, tr., Bhikkhu Bodhi, Boston: Wisdom Publication, 2000, p.133.

[12] The Book of the Gradual Sayings, Vol. IV, tr. E.M. Hare, London: Pali Texts Society, 1978, pp.58-61.

[13] Glenn R. Schiralsi and Melissa Hallmark Kerr, The Anger Management Sourcebook, New Delhi: Tata McGraw-Hill Publishing Company Limited, 2004, pp.19-21.

[14] The Dalai Lama, Healing Anger, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 2003, p.17.

[15] Ajahn Jagaro, Observing the Problem in Our Lives, Newsletter, January-March 1994, Buddhist Society of Western Australia.

[16] Glenn R. Schiralsi and Melissa Hallmark Kerr, The Anger Management Sourcebook, New Delhi: Tata McGraw-Hill Publishing Company Limited, 2004, p. 100.

[17] From a talk given by Ajahn Jagaro, Buddhist Society of W.A., Newsletter, July-Sept 1995, Perth, Western Australia..

[18] Glenn R. Schiralsi and Melissa Hallmark Kerr, The Anger Management Sourcebook, New Delhi: Tata McGraw-Hill Publishing Company Limited, 2004, p. 43.

[19] The Dalai Lama, Healing Anger, Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Pvt. Ltd., 2003, p.21.

[20] Ibid., p.54.

[21] The Connected Discourses of the Buddha, Vol. II, tr., Bhikkhu Bodhi, Boston: Wisdom Publication, 2000, p.219.

[22] Achariya Buddharakkhita, Metta, The Philosophy and Pracitce of Universal Love, Kandy: Buddhist Publication Society, 1989, p.21.

[23] Glenn R. Schiralsi and Melissa Hallmark Kerr, The Anger Management Sourcebook, New Delhi: Tata McGraw-Hill Publishing Company Limited, 2004, p.182.

[24] Ibid.

[25] Ajahn Jagaro, Newsletter, October-December 1993, Buddhist Society of Western Australia.

[26] Numerical Discourses of the Buddha, tr. and ed. by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi, New Delhi: Vistaar Publications, 2000, p.232.

[27] TheDhammapada, tr. Daw Mya Tin, Yangon: Myanmar Pitaka Association, 1995, verse 5, p.3. 

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

SỰ SỢ HÃI - Krishnamurti


Tại sao chúng ta làm tất cả những việc này: tuân lệnh, theo sau, bắt chước? 
Tại sao? 
Tại vì từ sâu thẳm trong nội tâm, chúng ta sợ hãi, không tự tin. Chúng ta muốn được ổn định, ổn định về tài chính, ổn định về đạo đức, chúng ta muốn được chấp nhận, chúng ta muốn có một địa vị ổn định, chúng ta muốn sẽ không bao giờ phải giáp mặt với chuyện phiền phức, với đau đớn, với khổ sở, chúng ta muốn được che chở. Cho nên, sự sợ hãi, một cách có ý thức hoặc không, đã làm cho chúng ta vâng lời bậc Thầy, người lãnh đạo, vị đạo sư, nhà cầm quyền. Sự sợ hãi cũng khiến cho chúng ta tránh làm những việc có hại cho người khác, vì sợ bị trừng phạt. Vì thế, đằng sau những hành động này, có ẩn chứa lòng ham muốn sự an toàn, lòng ham muốn được bảo đảm. 
Bởi vậy, nếu không xóa tan được sự sợ hãi, nếu không tự giải thoát ra khỏi sự sợ hãi, chỉ vâng lời hoặc được vâng lời, thì chả có ý nghĩa là bao. Điều có ý nghĩa là làm sao để hiểu được sự sợ hãi này một cách sâu sắc, thấy được sự sợ hãi biểu lộ từ ngày này qua ngày khác, với những kiểu cách khác nhau. Chỉ khi nào chúng ta thoát ly được khỏi sự sợ hãi, chúng ta mới có được cái phẩm chất cao quý của sự thâm hiểu, cảm thông, không bị chi phối bởi những kinh nghiệm và sự hiểu biết chồng chất. Chính đó là phẩm chất trong sạch ngoại hạng trong công cuộc tìm về thực tại. 
(Trích The Book of Life)

Thứ Năm, 2 tháng 1, 2014

12 điều ngạc nhiên về giáo dục mầm non Nhật Bản


   
Một bà mẹ Trung Quốc sống ở Kyoto đã rất ngạc nhiên về hệ thống giáo dục mầm non cũng như thói quen của những đứa trẻ ở Nhật Bản. Cô chia sẻ những điều mình quan sát được.
Cô viết: "Trước khi tới Nhật, Tiantian (con gái cô) đã từng học ở một trường mẫu giáo của Bắc Kinh 1 năm. Vì vậy, các bạn có thể hiểu rằng, chúng tôi cũng không xa lạ gì với môi trường này. Song, có những điều ở các trường mẫu giáo Nhật Bản đã khiến tôi phải ngạc nhiên".

1. Cần rất nhiều túi để tới trường
 Vào một ngày, họ nói chúng tôi cần phải chuẩn bị một số lượng túi nhất định với các kích cỡ khác nhau.
Túi sách vở, túi bao ngoài, túi dụng cụ ăn uống, hộp dụng cụ ăn uống, túi quần áo, túi đựng quần áo sẽ thay, túi đựng quần áo sau khi thay ra và túi giày. Sau đó thì túi A phải có chiều dài nhất định, túi B phải có chiều rộng nhất định, túi C phải đựng vừa trong túi D, túi E vừa trong túi F. Tôi đã không thể tin được điều đó.
Thậm chí, một vài trường mẫu giáo còn yêu cầu các bà mẹ phải có những chiếc túi riêng của mình.
Sau 2 năm, chúng tôi đã quen với điều đó và những đứa trẻ trở nên rất thành thục trong việc đặt đồ đạc vào đúng chiếc túi của nó. Và tôi cho rằng, lý do người Kyoto không ngại ngần khi phải phân loại rác thải là vì họ đã được dạy điều này từ khi còn ở trường mẫu giáo.

2. Bọn trẻ xách túi mà không cần sự giúp đỡ của bố mẹ
 Đó là điều thực sự làm tôi ngạc nhiên. Tôi nhận thấy những người lớn Nhật Bản, dù là bố mẹ hay ông bà bọn trẻ đều không phải xách bất kì chiếc túi nào cả, trong khi bọn trẻ phải xách tất cả những chiếc túi đủ kích cỡ này (ít nhất là 2 đến 3 chiếc). Và đáng ngạc nhiên hơn nữa là bọn trẻ còn có thể chạy rất nhanh!
Còn với chúng tôi thì sao? Có thể, đó không phải là thói quen của chúng tôi hoặc có lẽ nó là một yếu tố văn hóa, song tôi mang tất cả những chiếc túi, còn Tiantian thì không phải mang gì cả.
Hai ngày sau, giáo viên của Tiantian tới và nói chuyện với tôi: “Mẹ Tiantian à, con gái chị có thể tự làm được mọi việc ở trường…” Người Nhật có thói quen là chỉ nói nửa câu, sau đó để người nghe tự hiểu.
  
   
Ngay lập tức, tôi nhận ra rằng, cô giáo đang nói về chuyện gì. Song thấy tôi trầm ngâm nên cô ấy nói tiếp: “...việc xách những chiếc túi chẳng hạn…” Sau sự nhắc nhở tế nhị này, tôi đã để cho Tiantian xách tất cả những chiếc túi của cháu.
Trong một cuộc họp phụ huynh, tôi đã nói với mọi người rằng thói quen của người Trung Quốc là bố mẹ nên xách mọi thứ thay cho trẻ con. Lúc đó, đến lượt các bà mẹ Nhật ngạc nhiên đến mức không nói được lời nào. Và sau đó họ hỏi: “Tại sao?”
Tại sao ư? Có phải là vì người Trung Quốc chúng tôi yêu những đứa con của mình nhiều hơn không?

3. Thay quần áo liên tục
Trường mẫu giáo của Tiantian có một bộ đồng phục riêng, khi tới trường, cháu phải cởi bỏ nó ra và thay một bồ quần áo khác dành để vui chơi. Nó phải tháo giày và đi một đôi giày bale màu trắng. Khi tới sân tập thể dục, lại phải thay giày một lần nữa. Sau giấc ngủ vào buổi chiều, bọn trẻ lại phải thay quần áo. Thực sự là rất phiền phức.
Khi ở lớp học Hoa Cúc, Tiantian thường bị chậm trễ trong việc thay quần áo. Tôi thì không thể làm việc này cho cháu được ngoài việc phụ giúp nó một tay. Song tôi nhanh chóng nhận ra rằng tất cả các bà mẹ Nhật đều đứng sang một bên và không giúp đỡ bọn trẻ chút nào hết. Tôi dần hiểu ra rằng, việc thay quần áo này đã dạy bọn trẻ cách sống tự lập.  
Thông qua những gì mà chúng phải làm ở trường như thay quần áo, loay hoay với những rắc rối hàng ngày hay treo những chiếc khăn tay, những đứa trẻ Nhật đã bắt đầu học được thói quen giữ mọi thứ ngăn nắp từ khi chúng mới chỉ 2, 3 tuổi.

4. Mặc quần soóc vào mùa đông
Trẻ con Nhật luôn phải mặc quần soóc vào mùa đông. Lạnh không hề hấn gì với chúng. Ông bà của Tiantian ở Bắc Kinh đã rất lo lắng về việc này và cho rằng, tôi phải nói chuyện với cô giáo về vấn đề này, bởi lẽ, trẻ con Trung Quốc không thể chịu được lạnh.
Chắc các bạn không thể tưởng tượng được khi Tiantian mới bắt đầu vào trường mẫu giáo, ngày nào, cháu cũng bị ốm. Nhưng khi tôi nói chuyện với các bà mẹ Nhật thì câu trả lời của họ đã làm tôi kinh ngạc: “Tất nhiên rồi! Lý do chúng tôi đưa bọn trẻ tới trường mầm non là để chúng ốm mà!”
Nhìn những đứa trẻ khỏe mạnh đang chạy nhảy, tôi nhận ra rằng chúng ta không nên quá nuông chiều con cái.
   
   
5. Chưa đầy 1 tuổi nhưng có thể thi đấu trong những hoạt động thể thao
 Tất cả những lớp học ở trường mầm non Nhật Bản đều được đặt tên theo các loài hoa. Ban đầu, Tiantian ở lớp học Hoa Cúc, sau đó là Hoa Loa Kèn và bây giờ là một trong số những “chị cả” - lớp học Hoa Violet. Những đứa trẻ chưa đầy 1 tuổi thì ở lớp học Hoa Đào.
Những “bông hoa đào” chưa đầy 1 tuổi này không chỉ được đưa tới trường mầm non mà còn tham gia vào tất cả các hoạt động lớn như những buổi thi đấu thể thao hay những chương trình biểu diễn. Nhìn những đứa trẻ vừa khóc vừa bò về phía trước, tôi luôn cảm thấy rất thương chúng.

6. Những đội bóng đá nữ
Khi bọn trẻ học tới lớp mẫu giáo nhỡ ở trường mầm non, chúng bắt đầu với những bài học nhảy hàng tuần, giống như những bài tập thể dục thể chất ở nhà. Khi chúng học tới lớp lớn, sẽ có một trận đấu bóng đá. Khi mà bọn trẻ không tập nhảy cả ngày nữa nghĩa là chúng đang luyện tập bóng đá. Chúng cũng chơi như những vận động viên thực thụ, thậm chí là còn thi đấu với các trường mầm non khác. Tiantian đã bị thâm tím đầy người khi chơi trò chơi này song bù lại con bé khỏe khoắn và dũng cảm hơn.
Thực sự là khi chúng tôi mới tới Nhật Bản, sức khỏe của Tiantian thật là tệ. Bọn trẻ ở Nhật thường bắt đầu chơi bóng từ khi mới 3, 4 tuổi. Ở độ tuổi ấy, chúng bé hơn bọn trẻ Trung Quốc rất nhiều. Trong lớp của Tiantian, con bé lớn hơn hẳn những đứa trẻ khác nhưng lại rất yếu.
Bọn trẻ Nhật thì sẽ chạy quanh sân, còn Tiantian thì sao? Con bé sẽ bị cát nhét đầy giày và sẽ phải nhón chân để đi bộ. Một lần, bọn trẻ có một chuyến tham quan buộc chúng phải trèo lên một ngọn núi. Và Tiantian đã phải đi xuống núi và có 2 đứa trẻ Nhật khác nhỏ hơn đi cùng để dìu con bé. Con bé chưa từng leo bộ lên một ngọn núi trong một tiếng đồng hồ. Bây giờ thì nó đã khá hơn. Năm ngoái, ở Shangrila, Tiantian đã đi bộ trong vòng 4 tiếng mà không hề hấn gì.

7. Hệ thống giáo dục có tính hòa nhập
Khi còn ở Trung Quốc, tôi chỉ nhìn thấy lớp mẫu giáo của Tiantian một vài lần. Mỗi lớp đều có một phòng học riêng, song ở Nhật Bản thì không phải vậy.
Trước 9h30 sáng và sau 3h30 chiều, cả trường đều chơi cùng nhau. Trong sân, những đứa trẻ lớn cầm tay những đứa trẻ nhỏ, những đứa nhỏ đuổi theo những đứa lớn. Chúng chơi đùa rất vui vẻ, như thể anh chị em ruột.
Ví dụ như cách đây vài ngày, trong nhóm của Tiantian và một nhóm khác, sau khi biểu diễn tiết mục của chúng, bọn trẻ đã nói những điều làm cho tất cả các bậc phụ huynh đều phải bật khóc:
"Nhóm của con hôm nay rất vui bởi vì những em lớp dưới đã biểu diễn rất tốt. Đây là nhóm cuối cùng của bọn con. Khi bọn con bắt đầu học tiểu học, chắc chắn bọn con sẽ nhớ những người bạn này và trường của chúng con".

8. Dạy cách "mỉm cười" và nói "cảm ơn"
Trong những trường mầm non ở Nhật, dường như họ không hề quan tâm đến việc dạy kiến thức cho bọn trẻ.
Chúng không có bất kì quyển vở nào, chỉ có những cuốn phác thảo mỗi tháng một lần. Trong kế hoạch giáo dục của của nhà trường cũng không hề có những môn học như Toán, chữ kana (chữ Nhật), nghệ thuật hay âm nhạc. Và cũng không có cả Tiếng Anh hay những cuộc thi Olympia Toán học quốc tế. Họ cũng không dạy trượt băng hay bơi lội.
Khi bạn hỏi họ dạy bọn trẻ những gì thì bạn sẽ không bao giờ đoán được câu trả lời: "Chúng tôi dạy bọn trẻ cách luôn luôn mỉm cười!"
Ở Nhật, bạn ở đâu không quan trọng, bạn đang nói chuyện với ai không quan trọng, mà quan trọng nhất là bạn phải “luôn mỉm cười”. Một cô gái luôn mỉm cười là cô gái xinh đẹp nhất.
Họ còn dạy những gì nữa? Họ dạy chúng nói “cảm ơn”.
Có những điều được chú trọng trong nền giáo dục của Nhật song lại không được quan tâm nhiều ở Trung Quốc. Tuy nhiên, sau 3 năm, tôi nhận thấy rằng Tiantian đã có những tiến bộ về các môn như âm nhạc, nghệ thuật và đọc. Sự tiến bộ này là nhờ phương pháp giáo dục toàn diện.
  
   
   
9. Số lượng các hoạt động
Nhìn vào lịch thì có thể biết những ngày tôi phải chuẩn bị bữa trưa cho Tiantian. Đây là những ngày con bé có những buổi dã ngoại. Tôi không thể đếm được con bé đã leo núi mấy lần, được đi thăm bao nhiêu hồ nước, được đi tham quan và nhìn thấy bao nhiêu động vật và cây cối.
Ngoài ra, Tiantian còn tham gia làm bánh, tới những ngày hội thể thao, biểu diễn ở những sự kiện cộng đồng, tham gia những lễ hội được tổ chức qua đêm, tới các buổi giao lưu, những đền chùa, các buổi triển lãm... Chỉ có thể nói rằng có rất nhiều các hoạt động trong trường mầm non Nhật Bản.

10. Tổ chức tất cả các ngày lễ
Điều này cũng thực sự làm tôi ngạc nhiên. Giống như tôi đã nói ở trên, các trường mầm non của Nhật Bản tổ chức tất cả các ngày lễ truyền thống của họ: Ngày Con Gái, Ngày Con Trai, Lễ hội Ma đói... Không chỉ có vậy, họ còn tổ chức ngày Renri (đêm thứ 7 của năm mới theo lịch âm) và ngày Qixi.
Có buổi học, Tiantian trở về nhà và nói với tôi rằng: "Hôm nay, cô giáo hỏi con người Trung Quốc tổ chức những ngày lễ này như thế nào và con đã nói rằng con không biết". Thật là xấu hổ! Chính tôi cũng không biết câu trả lời!

11. Năng lực của giáo viên
Trong một lớp học ở Nhật, có từ 10 đến 30 học sinh nhưng chỉ có 1 giáo viên. Ban đầu, tôi đã băn khoăn về điều này. Nếu cô giáo có thể để mắt được tới tất cả bọn trẻ thì quả thực cô ấy rất giỏi. Sau đó, tôi nhận ra rằng mình đã đánh giá thấp những giáo viên mầm non nơi đây. Chỉ với một giáo viên, những tác phẩm của 30 đứa trẻ, chỉ huy một đội trống (rất chuyên nghiệp), việc học nghệ thuật, âm nhạc, học đọc, ngày sinh nhật của chúng, những nhóm mà chúng tham gia và các ngày hội thể thao...tất cả đều được sắp xếp một cách ngăn nắp và cẩn thận.
Hãy nhìn cô giáo xem, cô ấy luôn bình tĩnh và thoải mái. Và cô ấy đã khoảng 50 tuổi rồi đấy! Tôi rất khâm phục cô ấy!

12. Sự ảnh hưởng của Phật giáo
Có lẽ Kyoto là thành phố có nhiều đền chùa hơn bất kì thành phố nào của Nhật Bản. Nó có một không khí linh thiêng. Hàng tuần, Tiantian đều được đưa tới các đền chùa. Trong lễ hội quan trọng nhất, con bé phải quỳ trước Phật và có những hoạt động vào ngày sinh của Phật cũng như ngày Nirvana.
Hôm qua, Tiantian đã tới đền Nishi Honganji để xin một điều ước. Con bé được đại diện cho cả lớp dâng lên Phật những bông hoa. Tôi đã hỏi xem nó ước điều gì và con bé nói rằng: "Con ước rằng con sẽ luôn tin tưởng vào Đức Phật, luôn đối xử với mọi người bằng tấm lòng biết ơn và luôn quan tâm tới những gì người khác nói". 
(Theo Nguyễn Thảo)