Nếu chúng ta quyết tâm, trì chí tu tập theo mười điều nguyện lớn thì
có thể thuần thục tất cả chúng sinh, trọn đủ các hạnh nguyện hải của
ngài Bồ Tát Phổ Hiền, các loài ma quân, quỉ dữ thảy đều tránh xa, các
hạng phát tâm tu tập gần gũi, tuy vẫn sống trong thế gian, nhưng không
gặp chướng ngại.
Theo
Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Bồ Tát Phổ Hiền dạy rằng: nếu ai
muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện
rộng lớn như sau:
Một là thành tâm kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi, tán thán Như Lai.
Ba là thực hành hạnh cúng dường rộng rãi.
Bốn là ăn năn chừa bỏ các nghiệp chướng.
Năm là vui theo các công đức.
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh Phật trụ ở thế gian.
Tám là thường tu học theo lời Phật dạy.
Chín là luôn luôn tùy thuận lợi ích chúng sinh.
Mười là hồi hướng công đức khắp tất cả pháp giới.
Lễ kính chư Phật
Trong
thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều
dùng thân khẩu ý, tam nghiệp thanh tịnh, thường tu hạnh lễ kính. Nghĩa
là chúng ta thường xuyên một lòng thành tâm kính lễ chư Phật mười
phương, điều này là lẽ đương nhiên đối với những người Phật Tử.
Ðiều
quan trọng cần lưu ý là chúng ta không những kính lễ mười phương chư
Phật quá khứ, tức là chư Phật đã thành, mà chúng ta luôn luôn kính lễ
chư Phật trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Chư Phật hiện tại
và vị lai là những vị nào, ở đâu, làm sao chúng ta biết được mà kính lễ?
Thông
thường ở thế gian, chỉ khi nào các bậc thánh nhân viên tịch, các nhà
hiền triết qua đời rồi, người đời sau mới nhận ra được và tôn sùng,
chiêm bái. Còn khi các vị đó đương thời, tại thế, vì mê muội, vì ganh tị
đố kỵ, vì gièm pha phỉ báng, nói chung, vì vọng tâm tham sân si che
lấp, không có bao nhiêu người thấy được, hiểu được, cảm nhận được sự
siêu phàm, sự thanh cao bên trong cái hình tướng thế nhân của các vị đó.
Ðó là nói về các bậc chân tu thực học, đạo cao đức trọng, còn đối với
mọi người khác thì sao?
Con người thường tưởng tượng rằng thánh
nhân phải là những người có hình tướng dị thường, có hào quang tỏa khắp
thân, có phép lạ chữa lành bệnh tật, có thần thông đi mây, cưỡi gió,
lướt trên mặt nước, hô phong hoán vũ, làm được những chuyện kỳ đặc khác
người. Cho nên con người thích chiêm ngưỡng, lễ lạy các vách tường, nóc
nhà, gò mối, ụ đất, buồng chuối, cây cao, gốc cây sồi, ngọn cây sao, khe
suối, hốc đá, hang sâu, bất cứ chỗ nào có người phao tin rằng có tiên
thánh hiện ra nơi đó cứu người giúp đời!
Hoặc là tôn sùng, lễ bái
các người có hình tướng dị kỳ, râu tóc xồm xoàm, mười năm chưa tắm, bụi
bặm dơ bẩn, móng tay cả tấc, thậm chí có người không bận quần áo gì cả!
Hay sùng bái các người làm những việc khác thường như ngồi trên bàn
chông, đi trên đống lửa, quanh năm chỉ ngồi không nằm, ăn cơm muối mè,
không dùng thức ăn nào khác, chỉ uống nước lạnh, không chịu uống thuốc
men gì cả!
Sở dĩ có nhiều chuyện mê tín dị đoan như vậy, kể cả
những người gọi là học thức, trí thức thế gian, bằng cấp này nọ, bởi vì
con người thường quá quan tâm đến phương diện vật chất, chỉ chú trọng
đến cái thân xác của con người, mà quên đi phần tâm linh. Ngay khi còn
sống tại thế gian, cái thân xác này còn không phải là mình, huống là sau
khi chết. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta ai ai cũng muốn được trường sinh
bất tử, muốn thân xác này trẻ mãi không già, đẹp mãi không nhăn, khỏe
mãi không đau, sống hoài không chết, nhưng nào có được đâu? Ðến khi nghỉ
thở hai ba hôm là không ai dám đến gần!
Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Ðức Phật có dạy: "Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính". Nghĩa là
bất cứ chúng sinh nào, bất cứ người nào trên thế gian này, không phân
biệt hình tướng, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc,
không phân biệt sang hèn, không phân biệt địa vị, không phân biệt nam
nữ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt học thức, không phân biệt
xuất xứ, không phân biệt gì hết, mọi người đều có Phật tính đồng như
nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên hình
tướng bên ngoài có khác.
Chính vì con người chấp chặt cái hình
tướng bên ngoài cho nên phân biệt tốt xấu, phải quấy, đúng sai, không
hiểu được ngoài các thân xác ra, chính mình có Phật tánh, không hiểu
được mọi người đều có Phật tánh như nhau. Do đó phiền não khởi lên, cuộc
đời chìm đắm trong các sự tranh chấp, hơn thua, kiện thưa, đấu tranh,
giành giựt, phê phán, chỉ trích, chiếm đoạt. Nếu thực sự hiểu được mọi
người đều bình đẳng, đều có Phật tính như nhau, thì con người không dám
xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành động, lời nói hay ý nghĩ, huống là âm
mưu hại nhau, kiện nhau ra trước ba tòa quan lớn, đòi bồi thường vài
triệu đô la, để cả nhà xúm nhau chia chác! Thiệt là tội nghiệp lắm thay!
Con người tạo nghiệp mà không hay, không biết! Hoặc biết mà vẫn cố
phạm!
Chư Tổ có dạy: "Chúng sinh nhìn chư Phật là chúng sinh cho
nên khổ đau phiền não. Chư Phật nhìn chúng sinh là chư Phật cho nên niết
bàn an lạc". Nghĩa là những người phàm phu không biết mình có Phật
tính, không biết mọi người đều có thể thành một vị Phật trong tương lai,
thường mang tâm trạng tự ti, hèn kém, luôn luôn mang "cặp kiếng chúng
sinh", cho nên nhìn thấy tất cả mọi người chung quanh đều là chúng sinh
như mình, thường là tệ hơn mình, xấu xa hơn mình, cho nên sinh tâm chán
nản, ghét bỏ, khinh khi, giận tức, bực dọc, từ đó phiền não khổ đau bắt
đầu. Nói một cách thông thường đó là: "suy bụng ta ra bụng người". Người
mang cặp kiếng màu đen, nhìn chỗ nào cũng thấy tối thui, nhìn người nào
cũng tưởng là ma đen thùi!
Còn chư Phật từ nhãn thị chúng sinh,
thương nhìn cuộc đời bằng Phật nhãn, với tâm bồ đề giác ngộ, với "cặp
kiếng bình đẳng", cho nên nhìn thấy rõ ràng người nào cũng có Phật tánh,
cũng có khả năng thành một vị Phật, nếu giác ngộ, biết quày đầu hướng
thiện, từ bỏ nghiệp chướng. Trong nhà Phật, mọi người trân quí Phật tính
của nhau, nên thường chắp tay trước ngực, cúi đầu, chào nhau bằng câu:
"Mô Phật" hay "A Di Ðà Phật", ngụ ý rằng: "Búp sen xin tặng người. Một
vị Phật tương lai". Bởi vậy cho nên, tu hạnh "Lễ Kính Chư Phật", chúng
ta tạo không biết bao nhiêu phúc báu, tránh được biết bao nhiêu phiền
não khổ đau, từ đó chúng ta sống trong sự cảm thông, tương kính, cho nên
cuộc đời của chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc, không nghi, dù chúng
ta đang sống ở bất cứ nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Xưng tán Như Lai
Trong
thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều
dùng sức thậm thâm thắng giải hiện tiền tri kiến thường tu hạnh xưng
tán. Mỗi âm thinh diễn xuất tất cả ngôn từ hải, khen ngợi tất cả công
đức hải của tất cả Như Lai, bằng ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh,
thường không hề nhàm mỏi.
Nghĩa là chúng ta luôn luôn xưng dương,
tán thán, ca tụng, ngợi khen công đức của chư Phật đã thành, với mục
đích tự nhắc nhở mình noi gương chư Phật, trong cuộc sống hằng ngày, giữ
gìn ba nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh, chứ không phải chúng ta ca
ngợi chư Phật để được ban phúc, để được may mắn, để được như ý. Chư Phật
mười phương không cần chúng ta tán tụng như vậy đâu! Chúng ta kính lễ
chư Phật không phải chỉ ca tụng chư Phật, mà cần phải noi gương, học và
hành theo hạnh của chư Phật. Sách có câu: "Tôn sùng các bậc vĩ nhân,
không phải chỉ ca tụng họ, mà cần noi gương họ".
Khi nghe hoặc
thấy một người lâm nạn đau khổ, chúng ta liền khởi tâm từ bi thương xót.
Ðó chính là xưng tán Như Lai. Nhưng đến khi nhận biết kẻ lâm nạn là
người đã từng hãm hại mình, là người mình không ưa, thì chúng ta liền
khởi tâm khoái chí. Ðó chính là phỉ báng Như Lai.
Xưng tán Như
Lai còn có nghĩa là chúng ta tự nhắc nhở chính mình, ai ai cũng có đức
tính giác ngộ, sáng suốt, thanh tịnh và hòa bình, tự nhắc nhở chính mình
nên sống một cuộc đời tỉnh thức, không để vọng tâm chi phối, không để
tâm tham điều khiển, không để tâm sân xui khiến, không để tâm si thúc
đẩy, làm những chuyện lợi mình hại người, vì quyền lợi nhỏ nhen của mình
và người thân của mình làm thiệt hại, gây đau khổ cho người khác và gia
đình họ, dù cho người đó là kẻ thù cũng vậy.
Xưng tán Như Lai
không có nghĩa là chúng ta chỉ lo chuyện xây chùa to, dựng tượng lớn,
đọc các bài tán thán chư Phật trong các thời khóa tụng kinh, làm thơ ca
ngợi công đức chư Phật, tổ chức hành hương thập tự, tham dự các khóa tu
học, các khóa hành thiền.
Nếu chúng ta chỉ biết làm những chuyện
như vậy mà thôi, còn trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta sẵn sàng đấu
tranh, giành phần hơn, giành phần thắng, giành phần phải, giành phần
tốt, giành phần ngon, giành phần lợi, chúng ta để tâm tham sân si chi
phối, sẵn sàng lôi người khác ra tòa, hạ nhục kẻ khó ưa, thì thực sự
chúng ta phỉ báng Như Lai, chứ không phải xưng tán Như Lai vậy.
Quảng tu Cúng dường
"Khởi
thâm tín giải hiện tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ
nhi vi cúng dường". Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát
tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt
đẹp, những thành tựu cao quí nhất trên bước đường tu học. Khi viếng
chùa, về phần sự tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể
như: hương, đăng, hoa, quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng,
những yếu tố tâm linh siêu thoát.
Dâng cúng hương mang ý nghĩa
dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật, những hương
thơm kết tụ do việc thiền định, những hương thơm kết tụ do việc phát
triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và
những hương thơm kết tụ do việc giải thoát những hiểu biết phiền lụy của
thế gian. Nói chung gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có: giới hương, định
hương, tuệ hương, giải thoát và giải thoát tri kiến hương.
Dâng
cúng đăng, tức là dâng cúng đèn, mang ý nghĩa dâng cúng ánh sáng trí tuệ
sáng suốt, thắp sáng tâm trí, biết nhận thức mọi sự mọi vật đúng như
thực, không điên đảo, không mê mờ, biết sống theo chính kiến và chính
tín, tránh tà kiến và mê tín dị đoan. Cho nên trên bàn thờ Phật tại tư
gia, cũng như tại các tự viện, luôn luôn có một ngọn đèn thắp sáng, mang
ý nghĩa nhắc nhở chúng ta luôn luôn sống trong tỉnh thức, sáng suốt,
luôn luôn thúc liễm thân tâm, luôn luôn sống theo lời chư Phật dạy.
Dâng
cúng các loại hoa, mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt
đẹp, thơm tho, chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày theo lời chư
Phật dạy. Chẳng hạn như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày,
chúng ta dừng được việc ác nào trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm
đem dâng cúng chư Phật.
Dâng cúng các loại quả, các loại trái
cây, mang ý nghĩa dâng cúng những thành tựu, những kết quả, do công phu
tu học theo đúng Chính Pháp. Chẳng hạn như trước đây, những lời phê
phán, chửi mắng có thể làm chúng ta bực bội, khó ở, quên ăn, mất ngủ
trong một thời gian dài.
Giờ đây, gặp những cảnh ngộ trái ngang
như vậy, gặp những người gây phiền não khó khăn như vậy, gặp những việc
bất như ý đến như vậy, chúng ta có thể khởi lên một niệm trong tâm, song
nhận thức được ngay, liền tan biến mất, hoặc là tâm hoàn toàn tĩnh
lặng, vô niệm khởi, tức là chúng ta đã thành tựu đạo quả, dù một cách
viên mãn, hay chưa viên mãn!
Ðể tâm trí được thanh tịnh, chúng ta
hãy làm các điều thiện, quảng tu cúng dường, vì chính những ích lợi của
các điều thiện ấy, chứ không phải vì quyền lợi cá nhân, vì quyền lợi
bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những niềm vui mà chúng ta nhận được,
nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui mà chúng ta cho. Ðó là ích lợi
sâu xa của sự bố thí cúng dường của những người thiện tâm.
Tuy
nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng
dường là: tu hành đúng theo lời Phật dạy, làm lợi ích cho chúng sinh,
chịu khổ thế cho chúng sinh, nhiếp thọ chúng sinh, siêng năng tu tập các
điều lành, tránh các điều dữ, phát tâm bồ đề. Pháp cúng dường là sự
cúng dường rộng lớn hơn tất cả, được vô lượng vô biên công đức
sao
vậy? Bởi vì các đức Như Lai tôn trọng Chính Pháp, theo đúng Chính Pháp
mà tu hành, theo đúng lời chư Phật dạy thì sinh ra các Ðức Phật. Ðó mới
chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, chỉ dạy phương pháp, giúp đỡ
con người, chuyển hóa thành Phật, chứ không phải chỉ có những hình thức
cúng kiến lễ lạy mà thôi. Thực hành được như vậy mới gọi là quảng tu
cúng dường.
Sám hối Nghiệp chướng
Từ vô lượng kiếp về quá
khứ, do lòng tham lam, giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý tạo vô
lượng vô biên nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba
nghiệp thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Trong kinh sách có bài kệ sau đây:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sinh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối.
Nghiệp
là những điều gì do thân làm, do miệng nói, do ý nghĩ, thường xuyên
hằng ngày. Nghiệp thiện là những điều gì do thân khẩu ý, tạo ra ích lợi
cho mình và cho người. Từ xưa đến giờ, chúng ta tạo tác không biết bao
nhiêu là nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện, đều do tâm tham sân si, có từ
vô thủy, phát xuất ra hành động, lời nói hay ý nghĩ, làm lợi mình hại
người, gây đau khổ cho người khác. Tất cả hôm nay chúng ta đều thành
tâm, ăn năn sám hối, nguyện chừa bỏ, không tái phạm. Nghiệp thường gây
những chướng ngại trên đường đời, cũng như trên đường đạo, cho nên gọi
là nghiệp chướng.
Chẳng hạn chúng ta tạo nghiệp thiện như: làm
phúc, bố thí, cúng dường, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh, niệm Phật, nhưng
thấy người khác không làm như vậy, đâm ra bực dọc, khinh khi, phỉ báng,
thì cũng chướng, cho nên gọi là nghiệp chướng. Còn đối với những nghiệp
xấu ác, nghiệp bất thiện, thì dĩ nhiên là nghiệp chướng rồi, không cần
phải giải thích dài dòng.
Tuy nhiên, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức
Phật có dạy: "Nhất thiết duy tâm tạo". Nghĩa là mọi sự mọi việc trong
khắp mười phương pháp giới đều do tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do
tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Ðó chính là vọng tâm, lăng xăng
lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn, thường do tham sân si chi phối,
thúc đẩy, điều khiển, cho nên chúng ta thường tạo nghiệp xấu ác nhiều
hơn là nghiệp thiện. Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chân sám hối.
Nghĩa
là tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm của chúng ta chủ động, thì
phải thành tâm, phải tự trong thâm tâm, mà sám hối. Từ đó chúng ta phát
nguyện không tái phạm, cho nên mỗi khi từ vọng tâm khởi lên, tâm tham,
tâm sân, tâm si, chúng ta liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự
điều khiển, sai xử của tham sân si, thì tội lỗi sẽ không còn nữa. Khi
tội lỗi không còn, vọng tâm cũng lặng mất, chúng ta sống trong trạng
thái tịch tịnh, bình yên của tâm hồn. Ðó mới thực là sự sám hối chân
chính.
Thân nhân kẻ bị hãm hại thường đau khổ, nhưng nếu họ biết
tha thứ cho kẻ xấu ác kia, thì họ sẽ sống trong an lạc với tâm lượng từ
bi hỷ xả. Con người dù xấu ác đến cở nào, nhưng nếu biết thành tâm sám
hối, đều có cơ hội trở thành người thánh thiện. Không thiếu gì các vị
thánh nhân trong lịch sử, có quá khứ là kẻ bất thiện xấu ác trong xã
hội.
Chẳng hạn như gương của Angulimala, nhờ thành tâm dừng các
ác nghiệp, từ thân khẩu ý, thực tâm sám hối, tinh tiến tu học, thực hành
các lời dạy của Ðức Phật, trở thành một vị đại đức chân tu đắc đạo. Bởi
vậy cho nên, chúng ta chỉ nên quán xét chính mình có biết sám hối chưa,
chứ đừng quan trọng đến quá khứ của người khác tốt hay xấu! Chuyện ai
nấy lo vậy!
Con người thường mang tâm niệm khinh khi, ghét bỏ,
nguyền rủa những kẻ bất thiện, mong muốn hình phạt nặng nề, cho nên tâm
trạng bất an, rất có thể trở nên kẻ xấu ác hồi nào không hay. Chúng ta
nên biết rằng nền tảng của hạnh phúc chính là sự bình yên của tâm hồn.
An lạc và hạnh phúc là điều mong ước của tất cả mọi người trên thế gian
này. Muốn được như vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy luôn luôn
tha thứ cho người khác, dù là kẻ thù cũng vậy, nhưng đừng bao giờ tha
thứ cho bản thân mình.
Tùy hỷ Công đức
Từ lúc phát tâm bồ
đề, vì muốn cầu đạo giải thoát, chúng ta siêng tu cội phúc căn lành,
trải qua vô số kiếp, làm tất cả những hạnh khó làm, thấy người khác tu
tâm dưỡng tánh, làm bao nhiêu công đức, chúng ta đều phát tâm tùy hỷ.
Người tu tập các nghiệp thiện lành như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người
gặp khó khăn, nghèo đói, hoạn nạn, góp phần ấn tống kinh sách, đúc
chuông, tạo tượng, xây chùa, trường học, bịnh viện, tu tâm dưỡng tính,
tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, trì chú, giảng kinh, thuyết pháp, được
bao nhiêu công đức và phúc đức, thì người tu hạnh tùy hỷ cũng được bấy
nhiêu công đức và phúc đức. Tại sao vậy?
Bởi vì người tu hạnh tùy
hỷ công đức là người đã và đang dẹp được rất nhiều các vọng tâm ganh
tị, đố kỵ, nghi ngờ, tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ, bon chen, mới có thể
thấy người khác làm các việc thiện, việc lành mà vui theo. Như vậy người
tu tập các công đức lành và người tu hạnh tùy hỷ công đức, được kết quả
như nhau, không khác. Cũng ví như người có cây đuốc cháy sáng, người
khác đem cây đuốc của họ đến mồi, cây đuốc của họ cũng được cháy sáng
như vậy, không khác, mà cây đuốc của người kia không bị giảm bớt chút
ánh sáng nào cả vậy.
Người tu hạnh tùy hỷ công đức là người luôn
luôn nở nụ cười nhẹ nhàng, thanh thản trên gương mặt, tâm trí khinh an,
từ bi tâm rộng lớn, là người nhìn đời với cặp mắt hoan hỷ khi thấy những
người khác thành tựu các công đức, dễ gần gũi thầy tốt bạn lành. Bởi
vậy cho nên sách có câu: "Hãy gởi cho gió đóa hoa từ trên gương mặt rạng
rỡ nở hoa của bạn. Tôi sẽ ngữi mùi hương trên khắp các nẻo đường bạn đi
qua".
Thỉnh chuyển Pháp Luân
Trong thập phương tam thế
khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu
ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật nói
pháp nhiệm mầu. Chư Phật hiện đời chính là các bực chân tu thực học, đạo
cao đức trọng, mọi người đều có thể cảm nhận được khi gần gũi. Các Ngài
cũng như những cây cổ thụ bóng mát che rợp, cũng như nước cam lồ ngọt
lịm, đem lại sự mát mẻ, tươi vui, an lạc cho tất cả chúng sinh đang chìm
đắm trong bể khổ của cuộc đời, đang trôi lăn trong các cuộc kiện thưa,
tranh chấp về tiền bạc, về danh dự hão, về địa vị dỡm, về chức tước hàm,
về đủ mọi thứ khổ não, phiền lụy trên đời.
Thỉnh chuyển pháp
luân còn có nghĩa là thỉnh Phật tính chính mình chứng minh cho các hành
động, lời nói và ý nghĩ của chúng ta hợp với Chính Pháp. Thỉnh chư Phật
từ phương xa đến chuyển pháp luân, nói cách khác là chuyển bánh xe pháp
hay thuyết pháp, thực là muôn vàn khó khăn. Còn Phật tính thì luôn luôn
có sẵn với chúng ta, mỗi hành động, lời nói hay ý nghĩ đều hợp với Chính
Pháp, với lời dạy của chư Phật mười phương, chính là thỉnh Phật chuyển
pháp luân vậy.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi tắt là Kinh
Pháp Hoa, Ðức Phật chỉ chấp nhận chư Bồ Tát "tùng địa dũng xuất" hộ trì
Chính Pháp mà thôi. Nghĩa là chỉ có những người phát tâm bồ đề, tu hạnh
bồ tát, từ tâm địa mạnh mẽ xóa bỏ tham sân si, xa lìa mê tín dị đoan,
không còn nghĩ chuyện lợi mình hại người, từ tâm địa dũng mãnh phát khởi
tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, phát khởi ý nghĩ quên mình vì người, mới
thực sự là những người thực hành Chính Pháp, những người hộ trì Chính
Pháp, những người đang chuyển bánh xe pháp, đang chuyển pháp luân vậy.
Kinh
sách có câu: "Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai". Nghĩa là nếu
người nào có khả năng và thường chuyển được mọi sự, mọi việc, mọi vật
trên đời theo tâm lượng từ bi hỷ xả, không để các vọng tâm tham lam, sân
hận, si mê chuyển, điều khiển, sai khiến, thì người đó đồng với Như
Lai, không khác. Trong các buổi tụng kinh, thuyết pháp hay bàn luận
trong nhà Phật, trước tiên mọi người đều niệm hồng danh Ðức Phật để cầu
gia bị, mang ý nghĩa thỉnh Phật chuyển pháp luân, trong suốt thời tụng
kinh, buổi thuyết pháp hay buổi họp đó, để được trọn vẹn phúc đức và
công đức. Mọi người thỉnh Phật tánh của chính mình, chuyển bánh xe pháp
trong mọi hành động, mọi lời nói hay mọi ý nghĩ, để làm gương cho kẻ
khác có tín tâm với đạo Phật, với Chính Pháp.
Chư Tổ có dạy:
"Tĩnh tọa thường tư kỷ quá. Nhàn đàm bất luận nhân phi". Nghĩa là khi
ngồi yên một mình, người nào thực tâm tu học, muốn thoát ly phiền não
của cuộc đời, thường suy nghĩ về những lỗi lầm, những sai trái của chính
mình trong mọi hành động, lời nói hay ý nghĩ. Còn trong lúc nói chuyện,
đàm luận với người, không bao giờ đề cập đến sự sai trái, khuyết điểm,
lỗi lầm hay tội lỗi của người khác, trong quá khứ cũng như hiện tại. Do
đó, chúng ta nên biết rằng những cách cư xử đẹp trên đời không phải là
việc vô ích, mà là kết quả của một bản tính cao thượng, thanh nhã và một
tinh thần chính trực, ngay thẳng, chí công, vô tư. Ðược như vậy, cũng
có nghĩa là chúng ta thỉnh Phật chuyển pháp luân rồi vậy.
Thỉnh Phật trụ thế
Trong
thập phương tam thế khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều
thành tâm đem thân khẩu ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần thỉnh
mời tất cả chư Phật ở lại thế gian, vì muốn tất cả chúng sinh được lợi
lạc. Về phương diện toán học, một với một là hai. Nhưng về phương diện
Phật tính, một với một là không hai. Chúng ta thương yêu nhau, tinh thần
chúng ta sẽ hợp nhất. Chúng ta không tốt được với kẻ thù, thì chưa thực
sự tốt hoàn toàn. Chúng ta chưa nhận ra sự bình đẳng giữa các chúng
sinh, giữa mình với người, tức là chúng ta chưa thỉnh Phật trụ thế, Phật
tính của chúng ta còn bị che lấp bởi phiền não và khổ đau của cuộc đời,
còn bị người đời hãm hại, thưa kiện, nên vọng tâm khởi lên sự tức giận,
khó kềm chế nổi.
Muốn thỉnh Phật trụ thế, còn có nghĩa là muốn
Phật tính của chúng ta hiển lộ, chúng ta không nên làm bất cứ điều gì,
không nên nói bất cứ điều gì, không nên nghĩ bất cứ điều gì nhằm mục
đích hạ thấp người khác. Nhờ đó, chúng ta có thể thỉnh Phật tính của tất
cả những người chung quanh trụ thế. Cuộc đời giữa những người cư xử với
nhau bằng chân tâm, Phật tính chắc chắn sẽ an lạc và hạnh phúc, không
nghi, không còn phải mong đợi cảnh giới cực lạc nào khác, ngoài thế gian
này nữa cả.
Thường tùy Phật học
Trong thập phương tam thế
khắp pháp giới, có vô số Ðức Phật, chúng ta đều thành tâm đem thân khẩu
ý, dùng tất cả những phương tiện ân cần nương theo tất cả chư Phật, học
tập, thực hành các hạnh tinh tấn, không biếng trễ, thực hành các hạnh
khó làm, ở trong đạo tràng, cũng như ở khắp mọi nơi.
Sách có câu:
"Không biết thì hỏi, không giỏi thì học", hay "Không thầy đố mầy làm
nên". Ở đời, muốn có trí tuệ, muốn được thông minh, muốn sự hiểu biết
được sâu rộng, chúng ta nhất định phải học hỏi từ sách vở, từ những bực
thiện hữu tri thức, từ những bực tiền bối có nhiều kinh nghiệm, hay từ
những người đồng trang lứa, thậm chí từ những người trẻ tuổi hơn hơn
chúng ta nữa. Người biết đặt câu hỏi, biết được chỗ dốt của mình, sẽ chỉ
ngu dốt trong nhất thời. Còn người không chịu học hỏi, sẽ không hiểu
không biết suốt đời. Khi biết được mình dốt điểm nào thì bắt đầu hết
dốt. Người trí là người biết mình không biết điều gì, còn người ngu là
người tưởng mình biết hết tất cả mọi việc trên đời!
Trong đạo
Phật cũng vậy, chư Phật và chư Tổ mười phương cũng từng giảng dạy những
pháp môn tu học trong tam tạng kinh điển, để giúp chúng sinh thoát ly
khỏi luân hồi, khỏi trầm luân sinh tử, đạt được cứu kính niết bàn. Do đó
chúng ta cần nên gần gũi các bực thầy lành bạn tốt để học hỏi đạo lý,
không ai có thể tự mình trở thành Phật mà không cần tu học theo đúng
Chính Pháp, theo lời chư Phật dạy, cũng như người đi đường cần có bản
đồ, có địa bàn, có hướng dẫn, có hỏi thăm mới có thể đến nơi đến chốn
như ý muốn được.
Chư Tổ có dạy: " Tu mà không học là tu mù.Học mà
không tu là đãy sách". Nghĩa là người phát tâm tu theo đạo Phật, nhất
định phải học hỏi Chính Pháp, mới tránh được tình trạng tu mù, dễ lầm
đường lạc lối, theo tà ma ngoại đạo, mê tín dị đoan. Ở đây, chúng ta cần
nên biết rằng: dù có thờ Phật tại gia hay tại chùa, ngoài Tâm cầu Phật
đều gọi là ngoại đạo, không phát tâm bồ đề mà làm Phật sự, chẳng qua đó
là ma sự!
Trái lại, những người học cao hiểu rộng, trí thức thế
gian, nhưng không chịu, không biết tu tâm dưỡng tính, tức là những người
có tài học, mà không có đức độ, thì chẳng ích lợi gì cho ai, có khi còn
gieo tai họa cho đời, khi họ đem sở học, sự hiểu biết phục vụ những mưu
đồ của bản thân, gia đình hay phe nhóm.
Họ ỷ thế học rộng biết
nhiều, về luật pháp chẳng hạn, khinh khi mọi người, muốn làm giàu nhanh,
làm ăn bất chính, kiếm được nhiều tiền, xúi giục người khác, nổi lòng
tham lam, kiện tụng lung tung, đòi tiền thiệt hại. Suốt đời của họ, chỉ
biết có tiền! Những người nghiên cứu kinh điển, chỉ nhằm mục đích, thỏa
mãn nhu cầu, hiểu nhiều biết rộng, đem đi tranh cãi, lý luận phê bình,
chỉ trích soi mói, nhưng không áp dụng, thực hành lời Phật, trong đời
sống này, chẳng thể thoát ly, sinh tử luân hồi, chẳng ích lợi gì cho đời
sống tâm linh, ví cũng như cái đãy đựng sách, cái tủ chưng sách, hay
cái tàng kinh các mà thôi.
Hằng thuận Chúng sinh
Trong
khắp pháp giới, mười phương ba đời, bao nhiêu chúng sinh sai khác về sắc
thân, về tướng mạo, về hình trạng, về tâm tính, về tri kiến, chúng ta
đều tùy thuận tất cả, mà thực hành các sự tôn kính, cúng dường không
phân biệt. Tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chúng sinh chính
là tôn trọng, tùy thuận, cúng dường, phụng sự chư Phật. Nếu làm cho
chúng sinh vui mừng, thì chính là làm cho tất cả Như Lai hoan hỷ. Tại
sao vậy?
Bởi vì các đức Như Lai dụng tâm đại bi làm thể, nhân nơi
chúng sinh mà sinh lòng đại bi, nhân nơi lòng đại bi mà phát tâm bồ đề,
nhân nơi tâm bồ đề mà thành bậc vô thượng chính đẳng chính giác. Bởi vì
đối với tất cả chúng sinh, mà đem tâm bình đẳng đối xử, thì có thể sinh
lòng đại bi đầy đủ hoàn toàn.
Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng
sinh thì có thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Những người tu hạnh
Bồ Tát, tùy thuận chúng sinh như thế ấy. Chứ tùy thuận chúng sinh không
có nghĩa là bị chúng sinh sai xử, xui khiến, xúi giục, làm theo tất cả
những gì chúng sinh đòi hỏi, những gì chúng sinh mong muốn. Trong gia
đình, cũng như ngoài xã hội, tùy thuận chúng sinh không có nghĩa là nhắm
mắt hùa theo, làm theo, ủng hộ những việc làm bất thiện, bất lương.
Chẳng
hạn như con cái không thể tùy thuận cha mẹ, làm những việc sai lời Phật
dạy, trả thù báo oán, sát nhân hại vật. Ngược lại, cha mẹ cũng không
thể tùy thuận con cái, chiều theo con cái, muốn gì được nấy, thưa kiện
hại người, dù đó là người thân hay kẻ thù cũng vậy. Tùy thuận cũng không
có nghĩa là tự do muốn làm gì thì làm, tự do muốn làm gì cũng được.
Chúng ta cần nên nhớ rằng: mọi thứ tự do đều được giới hạn ở chỗ đụng
chạm tới tự do của kẻ khác.
Ví như giữa chốn rừng sâu, có cây cổ
thụ to lớn, nơi gốc cây được nước tưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy
đều sum sê tươi tốt. Trong vòng sinh tử luân hồi, cây bồ đề cũng vậy,
tất cả chúng sinh là cội rễ, Bồ Tát là hoa, chư Phật là quả. Dùng nước
đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sinh, thì có thể trổ bông Bồ Tát trí tuệ,
và kết thành quả Phật toàn giác. Nghĩa là chư Phật và chư Bồ Tát không
từ trên mây rơi xuống, không từ dưới đất chui lên, mà từ những chúng
sinh biết tu tâm dưỡng tánh, biết chuyển hóa tâm địa, biết tu hạnh nhẫn
nhục, biết từ bỏ các việc lợi mình hại người, biết dừng các nghiệp báo,
biết trưởng dưỡng tâm từ bi hỷ xả, biết cứu người giúp đời, biết vì
người quên mình, biết tùy thuận chúng sinh, để hướng dẫn chúng sinh vào
Bát chính đạo.
Phổ giai Hồi hướng
Từ sự lễ kính ban đầu
nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu phúc đức và công đức, thảy đều đem hồi
hướng cho tất cả chúng sinh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho
tất cả chúng sinh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thực hành
các pháp ác đều không thành, còn tu các nghiệp lành thì đều mau thành
tựu. Nếu các chúng sinh nhân vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác nên
chiêu cảm tất cả quả khổ, chúng ta đều phát nguyện chịu thế cho, khiến
chúng sinh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu quả vô thượng bồ đề.
Những người tu hạnh Bồ Tát, hồi hướng như vậy.
Hồi hướng như vậy,
người tu học sẽ dẹp được các vọng tâm tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, keo
kiệt, trừ được tâm sân hận căm tức, bực dọc thù hằn, phá được tâm si mê u
tối, không biết lẽ phải, không thấy chính đạo, tâm từ bi hỷ xả sẽ phát
triển, ngày một to lớn hơn, tâm thiện lành ngày một bao trùm, khắp các
hành động, lời nói, ý nghĩ. Con người sẽ ngày một gần với chư Phật hơn,
cuộc đời ngày một an lạc và hạnh phúc hơn. Niết bàn hay quả vị Phật ngày
một gần hơn, không còn bao xa nữa vậy.
* * *
Tóm lại, nếu
chúng ta quyết tâm, trì chí tu tập theo mười điều nguyện lớn thì có thể
thuần thục tất cả chúng sinh, trọn đủ các hạnh nguyện hải của ngài Bồ
Tát Phổ Hiền, các loài ma quân, quỉ dữ thảy đều tránh xa, các hạng phát
tâm tu tập gần gũi, tuy vẫn sống trong thế gian, nhưng không gặp chướng
ngại.
Lúc lâm chung tất cả các căn thân đều hư hoại, tất cả thân
thuộc đều phải xa lìa, tất cả oai phong đều phải thối thất, tất cả của
cải, tài sản, công danh, sự nghiệp đều không đem một món nào theo được.
Chỉ có mười điều nguyện lớn này chẳng rời người mà thôi. Người nào được
nghe mười điều nguyện lớn này, luôn luôn giữ gìn, giảng giải cho người,
tất cả hạnh nguyện đều được thành tựu, phúc đức vô lượng, công đức vô
biên, có thể ở trong biển đau khổ phiền não tự cứu được mình, giúp đỡ
chúng sinh, khiến được giác ngộ, đạt được Niết bàn. TimHieuDaoPhat.Com - Sống đời thanh thản Theo PTVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét