Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN - Phẩm Thứ Ba

KINH ĐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN
-----
Quán chúng-sinh nghiệp-duyên
PHẩm THứ ba:

1.Phật Mẫu thưa hỏi
  Lúc đó đức Ma-gia Phật Mẫu, 
Chắp tay cung-kính khấu cúng-dường, 
Hỏi bồ-Tát Địa-Tạng-vương:
“Thánh-giả! Xin chỉ tận-tường cho tôi, 
Cõi Diêm-Phù ở đời tạo nghiệp, 
Muôn ngàn lần sai biệt khác nhau, 
Mai này quả-báo đáo đầu,
Chúng sinh cảm-thọ nghiệp sâu thế nào?” 
bồ-Tát nghe liền tâu cặn-kẽ: 
“Có nghìn muôn cõi thế khác nhau, 
Cõi thời chẳng có ngục sâu,
Cõi thời ngục-thất ngập đầu chúng-sinh, 
Cõi thời chẳng có sanh người nữ, 
Cõi thời hàng nhân-nữ tràn-lan. 
Cõi Phật pháp được thuyết bàn,
Cõi thời Pháp Phật chưa ban xuống trần.  
nhẫn đến hàng Thanh-văn, Duyên-giác, 
Phật, v.v... sai khác cũng nhiều. 
Chẳng riêng lý báo cao siêu,
Khác sai địa-ngục mới nhiều thôi đâu!” 
Ma-gia khẩn cúi đầu hỏi nữa: 
“Tôi muốn nghe chuyện của Diêm-Phù, 
Cảm chiêu nghiệp ác thiên-thu,
những gì quả-báo đền bù ác nhân?” 
Địa-Tạng-vương ân-cần thưa-bạch: 
“Thánh-Mẫu! Xin trong sạch lóng nghe, 
vì ngài tôi sẽ chẳng nề,
Sẽ xin lược thuật nói về quả-nhân.” 
Phật mẫu lại trải thân mà bạch: 
“Tôi đang xin rửa sạch tai nghe!”

2. Bồ-Tát lược thuật
  Địa-Tạng thưa thỉnh chỉnh-tề:
“Danh-hiệu tội báo Diêm-Đề như sau: 
Chúng sinh nào quên câu Hiếu-đạo 
giết mẹ cha, khi đáo ngục tiền, 
Đọa vào vô-gián triền-miên,
Chịu khổ quả-báo muôn nghìn kiếp sanh. 
Chúng-sinh nào tâm lành chẳng có, 
Khiến thân Phật phải đổ máu tươi, 
vì thương phạm đến thân người,
Khinh-chê Tam-bảo, trong đời chẳng tin, 
Hoặc huỷ-báng Kệ Kinh chẳng ngán, 
Cũng đọa vào vô-gián ngục sâu, 
nghìn muôn ức kiếp xa lâu,
Cũng không biết cách hồi đầu mà ra. 
Chúng sinh gây bất hoà tăng-chúng, 
Phạm Tăng ni phóng-túng loạn dâm, 
Của thường-trụ cố đoạt-xâm,
vô-gián muôn kiếp khó tầm lối ra! 
Chúng-sinh nào, Thầy, bà giả mạo, 
giả Sa-Môn thuyết láo Phật ngôn, 
Của thường-trụ gạt bán-buôn,
vi-phạm giới-luật tiếng đồn xấu-xa, 
gạt-gẫm của Ta-bà tín-chủ, 
Của cúng-dường đem thủ lợi riêng. 
Địa-ngục vô-gián nào kiêng,
nghìn muôn ức kiếp xích-xiềng khó tha. 
Chúng-sinh nào lòng tà trộm-đạo, 
Cắp tài vật, lúa gạo của Chùa, 
Mõ chuông, y phục, tương dưa...
Của Chùa đâu thể lấy bừa mà ham! 
Của không cho vì tham mà lấy, 
vô-gián, là quả ấy báo đền. 
ngàn muôn ức kiếp liên-miên,
Đầu trâu mặt ngựa đầu niềng chẳng tha!” 
ngài Địa-Tạng thiết-tha thưa gởi: 
“Chúng sinh nào phạm tội vừa nêu, 
Địa-ngục vô-gián tự chiêu,
Muốn ngưng một niệm đốt thiêu, được nào!” 
Thánh-Mẫu lại cúi đầu bạch hỏi: 
“vô-gián là tên gọi, vì sao?” 
Địa-Tạng bồ-Tát trình tâu:
“bao nhiêu Địa-ngục trong rào Thiết-vi, 
Thưa Thánh-Mẫu! đều ghi vô-gián, 
Mười tám tầng ngục lớn đứng đầu. 
năm trăm ngục kế tiếp sau,
Đều có danh-hiệu khác nhau mỗi tầng. 
Kế lại có nghìn trăm danh-hiệu, 
Cũng là tên mỗi tiểu ngục biên  (4)
. Địa-ngục vô-gián nói riêng,
giáp vòng thành ngục dặm liền tám muô
Tường thành đó đúc khuôn bằng sắt, 
Trăm dặm cao, lửa hắt trên không, 
Chẳng còn chỗ hở mà trông,
nhiều ngục liên-tiếp trong vòng thành ca
bao nhiêu ngục bấy nhiêu danh-hiệu, 
vô-gián là tên hiệu ngục riêng. 
ngục này tường sắt châu-viên,
Muôn tám nghìn dặm tường liền một kh
Trên dưới có lửa tuôn hừng-hực, 
Trên đầu tường rắn sắt, ngao đồng, 
Đuổi nhau phun lửa Tây Đông,
Trong ngục lại có giường đồng thênh-tha
Một người nằm, thân căng rộng khắp, 
Muôn nghìn người ép chặt một giường, 
Chỉ do chiêu cảm mà đương.
Lại còn hình-phạt thảm-thương khó bàn
Lũ Dạ-Xoa cùng đoàn ác quỷ, 
Răng nanh chìa, bén tỷ như gươm, 
Mắt thì loé tựa chớp giăng,
Móng tay như sắt băm-vằm ruột gan. 
Dạ-Xoa khác cầm bàn chĩa lớn, 
Đâm chém nhầu hung-tợn bất phân, 
vào đầu, vào miệng, tay chân,
Dồi lên móc xuống muôn phần đớn-đau. 
Lại dùng chĩa ghim đầu giường sắt, 
Để cú, diều, mổ mắt, rỉa thây. 
Đầu thì rắn sắt cắn nhây,
Lóng đốt thân-thể, đinh dài đóng gông. 
Lại kéo lưỡi le thòng cày suốt, 
nước đồng sôi đổ tuột họng sâu, 
Dây sắt nung đỏ quấn đầu,
Chết đi sống lại khổ đau vô ngần. 
Một ngày đêm muôn lần sống chết. 
Do tâm chiêu-cảm kết quả-nhân. 
Trải qua muôn ức vạn năm,
Thảm thương gánh chịu khôn tầm ngày ra. 
Thế-giới này nếu mà hư-hoại, 
Lại sinh qua thế-giới láng-giềng, 
Cũng đầy địa-ngục xích-xiềng,
Tiếp-tục trả-báo ác riêng đã làm. 
Thế-giới nào sắp toan hư-hoại, 
Thì sanh vào ngục-giới đang còn, 
Đợi khi Thế-giới này hoàn, 
Lại sanh trở lại chu-toàn nghiệp hung. 
Kiếp ngục tù trùng-trùng chẳng đoạn, 
nên gọi là vô-gián A-tỳ, 
Do năm nghiệp cảm thọ-trì,
Một là cảnh khổ hào-ly chẳng rời. 
Hình phạt liền một hơi, chẳng đoạn, 
nên gọi là vô-gián ngục liền. 
Hai là chật-hẹp như nêm,
Một người cũng chật, hoặc thêm muôn người, 
Chỗ giam-giũ cũng nơi ngục ấy, 
Ép thân người nát bấy như tương, 
Đó là vô-gián ngục-trường.
ba là khí-cụ, chủ-trương hành-hình, 
Khí-cụ: nào chĩa, đinh, dao, mác, 
Chảo dầu sôi, niền sắt, ngựa lừa, 
Diều hâu, chó sắt, đục, cưa,
Chủ-trương thì chẳng để thừa một giây, 
Đem tội-nhân đêm ngày trừng-trị, 
Dùng cực-hình chẳng lý khóc than, 
Số năm chẳng thể nghĩ bàn,
nên gọi vô-gián chẳng oan tiếng đồn. 
bốn là chẳng luận hồn nam nữ, 
Dù Trời, Rồng nghiệp dữ đã mang, 
Quỷ, Thần, hèn, quý, nghèo, sang,
Đồng đều chịu khổ do đàng cảm-chiêu. 
Thế cũng gọi là điều vô-gián, 
Chẳng vị tình ân oán, thân thù. 
năm là địa-ngục thiên thu,
Đã vào vô-gián, ngày tù chẳng phân, 
bị hành-hạ muôn lần sống chết, 
Qua một đêm lại hết một ngày, 
Khổ đau chẳng nghỉ một giây,
Chừng nào hết nghiệp là ngày thọ sanh.” 
ngài Địa-Tạng lại trình Phật Mẫu: 
“Đây chỉ là sơ-lậu mà thôi, 
Muốn hiểu vô-gián rạch-ròi,
Hoặc tên khí-cụ hoặc nơi hành hình, 
Hoặc hiểu rõ bịnh tình thống-khổ, 
Phải cần nhiều vô-số thời-gian, 
Dầu cho đến một kiếp tàn,
Cũng không nói hết hoàn-toàn lẽ sâu.” 
nghe bồ-Tát hồi lâu giảng-giải, 
Phật Mẫu lòng càng mãi âu-sầu, 
Chắp tay đảnh lễ cúi đầu,
Cảm-thương thê-thiết buồn rầu mà lui.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét